33
Sáng sớm hôm sau, ta bận rộn chuẩn bị các món ăn.
Dù nói đây là tiệc sinh nhật của ta, nhưng thực chất, nhân vật chính của buổi tiệc lại là Tần vương Thế tử. Ta cố ý lấy lòng, còn Vệ Nguyên Hồng thì cũng vui vẻ mượn hoa hiến Phật.
Hắn rất chu đáo, mua cho ta đủ thứ quà cáp và nguyên liệu tươi ngon, chẳng màng việc bản thân đang cùng Tần Vương chạy trốn đến tận biên giới phía Nam, đầu treo lủng lẳng trên thắt lưng, và sắp tới có lẽ sẽ phải chịu đói triền miên.
Trong lúc ta nấu ăn, hắn cứ quẩn quanh bên cạnh muốn giúp đỡ, nhưng rốt cuộc lại chỉ gây phiền phức. Cuối cùng, hắn đành nhìn Vệ Ninh Dao nhóm lửa với vẻ lúng túng, tự giễu: “Tứ muội… đã thay đổi nhiều quá.”
Vệ Ninh Dao không ngẩng đầu, lạnh lùng đáp trả: “Là do Bảo Nhi tỷ dạy dỗ. Nếu không có Bảo Nhi tỷ, ta đã chết cả trăm lần rồi.”
Vệ Nguyên Hồng ngượng ngùng, đi vòng quanh một lúc. Đúng lúc đó, hắn nghe thấy Tần Thế tử lại đang ầm ĩ đòi tìm mỹ nhân, đánh mắng tùy tùng loạn xạ. Vệ Nguyên Hồng chỉ đành vội vã lên lầu khuyên can Tần Thế tử bớt náo loạn.
Sau khi nấu xong các món ăn, ta quay về phòng thay y phục. Vệ Ninh Dao búi tóc cho ta, bỗng nhiên mếu máo như muốn rơi lệ.
Ta vội bẹo má nàng: “Đừng khóc, phải vui lên chứ.”
Nàng ấy nở nụ cười mà trông còn khổ sở hơn cả khóc, cẩn thận tô điểm đôi lông mày và thoa chút son, nhìn vào gương rồi cảm thán: “Bảo Nhi tỷ, ta vốn muốn tặng tỷ một sinh thần thật đẹp. Nhưng… món quà này, ta e rằng không xứng đáng.”
Ta tò mò hỏi: “Quà gì vậy? Món quà từ muội luôn là tuyệt nhất.”
Nàng ngượng ngùng thì thầm: “Là… thứ tỷ nói muốn hôm đó… nhưng giờ nghĩ lại, có lẽ không hợp lắm…”
Ta nói gì nhỉ? Ta ngỡ ngàng chỉnh lại chiếc trâm trên tóc, tự hỏi bản thân liệu ta có từng yêu cầu gì không.
Ngay lúc ta còn đang nghĩ ngợi, Vệ Nguyên Hồng đã gọi từ ngoài cửa: “Bảo Nhi tỷ, ta… ta tới đây…”
Ta mở cửa ra, hắn ngây người nhìn ta, rồi từ từ đỏ mặt, cẩn trọng đưa tay ra.
Ta chần chừ đưa tay cho hắn, hắn nắm lấy tay ta, lòng bàn tay hắn nóng rực, khiến ta khẽ run.
Ta không nhịn được, liếc nhìn hắn thêm vài lần. Trong mắt hắn là sự mãn nguyện như thể đã đạt được điều mơ ước, ngón tay cái khẽ ấn lên vết sẹo nơi hổ khẩu trên tay ta.
Lúc ấy, ta mới hiểu vì sao hắn lại đem lòng yêu ta.
Vết sẹo ấy là do ta vì hắn mà có. Năm hắn mười hai tuổi, bị kẻ nào đó xúi giục trốn học ra ngoại ô chơi.
Định Viễn hầu biết chuyện, nổi trận lôi đình, sai người lôi hắn về, bắt quỳ giữa sân, rồi tức giận ném chiếc bình sứ về phía hắn.
Bình sứ lệch đi một tấc, lao thẳng về đầu hắn. Ta đã lao tới chắn lại, khiến tay bị mảnh sứ cứa trúng, để lại vết sẹo.
Chuyện ấy đối với ta chẳng đáng gì, vì nếu hôm đó Định Viễn hầu lỡ tay giết chết Vệ Nguyên Hồng, cả bọn gia nhân chúng ta đều phải chôn cùng. Ta buộc phải đóng vai một “nô tỳ trung thành”.
Ta không ngờ, hành động ấy lại gieo vào lòng Vệ Nguyên Hồng một thứ tình cảm không nên có.
Tần Thế tử chẳng xem mình là khách, đã ngồi trước bàn tiệc ăn uống no nê. Món cá vược hấp bị hắn lật qua lật lại đến nát bét, không còn hình dạng.
Vừa thấy ta bước vào, ánh mắt hắn ta lập tức bám lấy ta, nhơ nhớp như ruột cá thối, khiến ta ghê tởm.
Vệ Nguyên Hồng mặt mày u ám, kéo ta ngồi xuống, khéo léo che chắn ánh mắt hằn ta học của Tần Thế tử.
Tần Thế tử gác chân lên ghế, nhếch mép cười khẩy: “Vệ đại công tử đúng là có phúc, thức ăn ngon, mỹ nhân lại càng ngon! Không biết mỹ nhân này tên gì nhỉ?”
Ta chưa kịp đáp, Vệ Nguyên Hồng đã rót đầy ly rượu mời hắn: “Thế tử, mời dùng.”
Tần Thế tử chẳng hề nể mặt, hất tay suýt làm đổ ly rượu, chỉ vào ta mà nói lớn: “Bản Thế tử chỉ uống rượu do mỹ nhân dâng!”
Vệ Nguyên Hồng giận dữ định bật lại, nhưng Vệ Ninh Dao bỗng đẩy cửa bước vào, duyên dáng nói:
“Thế tử gia, tiểu nữ đến kính rượu ngài đây!”
34
Vệ Ninh Dao sở hữu dung nhan đào hoa, chỉ một nụ cười thoáng qua cũng khiến Tần Thế tử mê mẩn thần hồn điên đảo.
Vệ Nguyên Hồng hoảng hốt, cảm thấy có điều chẳng lành, liền muốn ngăn nàng ấy lại. Thế nhưng Vệ Ninh Dao đã duyên dáng bước tới bên Tần Thế tử, nhẹ nhàng cầm lấy chén rượu từ tay Vệ Nguyên Hồng:
“Thế tử gia, tiểu nữ kính ngài một ly!”
Tần Thế tử lập tức nắm chặt lấy tay nàng, nuốt nước bọt ừng ực. Vệ Ninh Dao thuận thế đưa chén rượu đến miệng hắn ta. Khi thấy hắn ta uống cạn, nàng ấy e lệ cười, che mặt bằng ống tay áo như một thiếu nữ ngượng ngùng.
Tần Thế tử say mê vuốt ve bàn tay của Vệ Ninh Dao, không ngừng tấm tắc khen:
“Vệ đại công tử, ngươi giỏi giấu người đẹp thật đấy! Có mỹ nhân thế này sao không sớm mang ra cho bản Thế tử thưởng ngoạn?”
Vệ Nguyên Hồng vội vàng giải thích:
“Nàng… nàng là Tứ muội của ta, chẳng biết lễ nghĩa, khiến Thế tử chê cười.”
“Muội muội à? Bản vương sao chưa từng gặp? Hay là tiểu tình nhân của ngươi đây?” Thế tử cười khẩy, giọng khinh khỉnh.
Vệ Ninh Dao gả chồng sớm, Tần Thế tử đương nhiên không biết nàng ấy. Càng không nhớ rằng chính mình là nguyên nhân khiến mẫu thân nàng ấy, Từ di nương, phải chịu thảm kịch.
Vệ Nguyên Hồng sốt ruột khi thấy Vệ Ninh Dao càng lúc càng gần kề bên Tần Thế tử, bèn vươn tay định kéo nàng ra. Nhưng ta đã kịp thời giữ chặt lấy cánh tay hắn.
“Để nàng vui vẻ một chút đi.” Ta nói, gắp một miếng thức ăn nhét vào miệng hắn. “Ăn đi, món này ta làm riêng cho huynh đấy.”
Vệ Nguyên Hồng bồn chồn không yên, nhưng cuối cùng cũng không cưỡng lại được sự dịu dàng của ta, đành miễn cưỡng nở một nụ cười yếu ớt.
Trong khi đó, Tần Thế tử chìm đắm trong từng lời ngọt ngào của Vệ Ninh Dao:
“Thế tử gia thật tài giỏi!”, “Thế tử gia, uống thêm một ly nữa đi!”, rồi lại cạn hết ly này đến ly khác.
Khi hắn ta đang định khoác tay lên vai Vệ Ninh Dao, đột nhiên cả người hắn cứng đờ, rồi cơ thể bắt đầu co giật. Gương mặt hắn ta nhăn nhúm lại vì đau đớn, hai tay ôm lấy bụng, rên rỉ vài tiếng rồi bất ngờ nôn thốc nôn tháo lên bàn tiệc.
Vệ Nguyên Hồng ghê tởm né sang một bên, định gọi người tới đưa Tần Thế tử về nghỉ. Nhưng ngay lúc đó, ta vòng tay ra sau, ghim chặt chiếc trâm cài tóc vào cổ họng hắn.
“Đại công tử.” Giọng ta lạnh lùng như băng. “Huynh hãy mở mắt mà nhìn xem, đây là kết cục của bọn phản thần tặc tử.”
Vệ Nguyên Hồng kinh hoàng trân trân nhìn Thế tử, thấy hắn càng lúc càng co giật dữ dội, tay cào xé ngực trong tuyệt vọng. Đôi mắt hắn trợn trừng, thở dốc vài hơi rồi đổ gục xuống bàn.
Vệ Ninh Dao nâng người hắn dậy, dựa vào ghế, rồi thử kiểm tra hơi thở của hắn ta. Xác nhận hắn đã chết, nàng ấy bật cười khoan khoái đến rơi lệ:
“Chết thật đáng đời!”
Vệ Nguyên Hồng kinh hoảng đến rối loạn, liên tục hỏi ta:
“Bảo Nhi tỷ! Tỷ đã làm gì? Tỷ điên rồi sao? Tỷ đã làm gì!”
“Chỉ là chút cỏ dại thôi.” Ta vỗ nhẹ lên đầu hắn. “Nhưng thứ cỏ ấy có cái tên khác là Lôi Công Đằng.”
Lôi Công Đằng, kịch độc. Vị công tử ngây ngô này đương nhiên không biết rằng quanh ngọn núi sau trạm dịch toàn là những loại thảo dược chết người.
Ta đã nghiền nát những lá cỏ độc ấy ngay trước mặt hắn, trộn vào món ăn và rượu.
Chính hắn đã cho ta cơ hội, khi ra lệnh đuổi hết gia nhân, để có thể một mình trò chuyện với ta.
Chính hắn đã bảo ta mời Tần Thế tử dự tiệc, và vô tình giúp ta cùng Vệ Ninh Dao tiễn tên Tần Thế tử cao quý về bên kia thế giới.
Giờ đây, đám tay sai của Tần Thế tử vẫn còn đang say sưa chè chén dưới lầu, mà Tần Thế tử của chúng đã lặng lẽ qua cầu Nại Hà.
Ta lạnh lùng nói:
“Hãy ra lệnh cho thủ hạ chuẩn bị ngựa. Đưa ta và Ninh Dao rời khỏi đây, nếu không, chúng ta cùng chết chung tại đây.”
Chiếc trâm cài tóc trong tay ta ấn sâu vào da thịt hắn, khiến hắn hoảng loạn đến run rẩy.
“Bảo Nhi tỷ… từ đầu đến cuối, tỷ đều tính toán cả rồi sao? Tỷ thật sự không có chút tình cảm nào với ta ư?”
Ta cũng có chút tình cảm với hắn, nếu không, ta đã chẳng cho hắn ăn món duy nhất không nhiễm độc.
Nhưng giữa ta và hắn là mối thù sâu tựa biển. Nợ máu mà Tần Vương và Tần Thế tử gây ra không chỉ là với Hoa Nhi, với Hà chưởng quầy, với Từ di nương, mà còn là với vô số dân lành vô tội.
Chúng ta – những kẻ tiện dân, chỉ là loài cỏ dại nơi thôn dã. Bình thường chẳng ai để mắt tới, nhưng khi đã nổi giận, cũng đủ sức hạ độc cả một bàn tiệc.
Cuối cùng, Vệ Nguyên Hồng cũng cúi đầu, đau đớn thốt lên:
“Đi đi, Bảo Nhi tỷ… đưa Ninh Dao cùng đi.”
35
Ta cưỡi trên lưng ngựa của Vệ Nguyên Hồng, mang theo Vệ Ninh Dao, chạy trốn suốt đêm.
Chúng ta phi ngựa liên tục suốt một canh giờ, cuối cùng cũng tìm được một khu rừng rậm để ẩn náu. Sau khi xuống ngựa, Ninh Dao đột nhiên quỳ sụp xuống, hướng về phương Bắc dập đầu bốn lần, khóc nức nở không thành tiếng.
Đất Bác Châu hoang vu, chúng ta không quen biết ai, không dám tùy tiện xuống núi vì sợ gặp phải quân của Vương gia. Đành phải lang thang trong rừng, ăn trái dại qua ngày, ôm nhau trong đêm lạnh để vượt qua những giờ phút giá rét.
Ninh Dao rúc vào lòng ta, dường như thân hình nhỏ bé hơn rất nhiều, trở lại thành cô bé ngày nào, hay nằm bên ta thủ thỉ chuyện trò:
“Bảo Nhi tỷ, tiệc sinh thần của tỷ bị phá hỏng rồi, sau này để muội bù cho tỷ nhé…”
Ta cười nhạt: “Thật ra, tỷ không biết ngày sinh của mình. Hồi đó, khi muội hỏi, tỷ chỉ bịa ra một ngày.”
Ninh Dao cười khẽ: “Thế thì tốt quá! Vậy lần này không tính nhé, quà sinh nhật muội chưa chuẩn bị xong mà. Khi xuống núi, chúng ta mời một vị tiên đoán số mệnh, để chọn cho tỷ một ngày sinh tốt đẹp rồi tổ chức lại.”
Ta bật cười, gọi nàng ấy là cô bé ngốc nghếch, chỉ chăm chăm vào chuyện sinh nhật. Nàng nghiêm túc đáp:
“Muội không thể làm nhiều thứ cho tỷ, nhưng sinh nhật thì nhất định phải làm.”
Nghe tiếng sói tru vang vọng từ xa, ta siết chặt nàng vào lòng, lòng ngổn ngang trăm mối.
Chúng ta lẩn trốn suốt mười mấy ngày, cuối cùng cũng vượt qua ngọn núi và nhìn thấy đồng bằng, thấy cả những ngôi làng phía dưới.
Thế nhưng, đêm hôm đó, trước khi kịp xuống núi, đỉnh núi đối diện đột nhiên sáng rực bởi ánh lửa từ những bó đuốc. Hàng ngàn ngọn lửa trải dài, chiếu sáng cả một vùng núi.
Ta hoảng hốt nằm rạp xuống đất, lắng nghe tiếng bước chân rầm rập. Ước chừng phải có ít nhất cả ngàn người.
“Chắc chắn là quân của Tần Vương phục kích ở đây.” Vệ Ninh Dao phân tích cẩn thận. “Chúng ta vẫn còn ở địa phận Bác Châu. Một lượng lớn binh mã thế này chỉ có thể là của Tần Vương. Vị trí này rất hiểm trở, phía trước là đồng bằng, hai bên là núi. Nếu Tần Vương chiếm được cao điểm, chắc chắn sẽ gây tổn thất nặng cho quân triều đình!”
Ta lo lắng không yên: “Không lẽ đây là kế ‘dụ địch thâm nhập’ mà Vệ Nguyên Hồng đã nhắc tới?”
Ánh lửa dần tắt, chúng ta rón rén bò xuống sườn núi, cố gắng không gây ra tiếng động để tránh bị phát hiện.
Đến khi tới lưng chừng núi, Vệ Ninh Dao bỗng chỉ tay về phía xa, hốt hoảng nói: “Bảo Nhi tỷ, tỷ xem, lại có thêm người tới!”
Ta nheo mắt nhìn kỹ, thấy một đội quân nữa đang tiến đến. Họ cưỡi những con ngựa cao lớn, dẫn đầu là một tướng quân khoác áo giáp bạc, phía sau phấp phới lá cờ đỏ viền đen.
“Đó là cờ của Võ Uy Tướng Quân!” Vệ Ninh Dao hoảng hốt. “Làm sao bây giờ? Phía trước có mai phục!”
Ta cũng bàng hoàng không biết phải làm gì. Đội quân của Võ Uy Tướng Quân sắp bước vào vòng phục kích, Vệ Ninh Dao đột nhiên hất tay ta ra và lao xuống núi như điên cuồng.
Con dốc quá hiểm trở, nàng ấy trượt chân và lăn xuống như một viên đá, cơ thể va đập vào những tảng đá sắc nhọn, toàn thân thương tích đầy mình.
Bụi đất bay mù mịt, cành cây rách nát vương vãi khắp người nàng. Đôi giày đã mất, nhưng khi ngã xuống đồng bằng, nàng ấy vẫn cố sức đứng dậy, không ngừng vung tay và hét lớn:
“Phía trước có mai phục! Đừng tiến tới nữa! Có mai phục đấy!!”
36
“Ninh Dao!!”
Ta không giữ được nàng, lăn lộn trên sườn núi, hoảng loạn đưa tay ra: “Ninh Dao! Ninh Dao!!”
Nhưng Vệ Ninh Dao không dừng lại. Thân ảnh gầy yếu của nàng ấy đắm chìm trong bình minh, chân trần, tay vung những mảnh vải rách trên áo, chạy xuyên qua đá vụn, gào thét không ngừng.
Từ xa, những ánh bạc đang dần tiến lại gần. Tiếng kêu cứu của nàng cuối cùng cũng vang đến tai họ. Một tiếng huýt dài vang lên, Võ Uy Tướng Quân kéo dây cương dừng ngựa, giơ tay hô lệnh cho đội quân phía sau dừng lại.
Nhưng ngay khoảnh khắc đó, phía sau truyền đến tiếng gió rít của những mũi tên. Ta dùng toàn lực lao về phía trước, nhưng đã quá muộn.
Một mũi tên bay thẳng tới, lướt qua tai ta và cắm sâu vào lưng Vệ Ninh Dao.
Ta ngã xuống đất, hàng loạt mũi tên rơi quanh người, tựa như một trận mưa từ đám mây cam trên trời, trút xuống mặt ta những giọt nước ấm, thoảng vị tanh nồng.
“Ninh Dao…”
Nàng ấy ngã xuống ngay trước mắt ta, tựa như một cành lau bị gió thổi gãy, trên thân cắm đầy tên, lông vũ khẽ rung theo làn gió.
Tâm trí ta trống rỗng.
Sao có thể thế này?
Nàng ấy sao dám chạy ra đây?
Rõ ràng nàng là người nhát gan nhất mà!
“Ninh Dao… Ninh Dao!” Ta khó nhọc bò đến bên nàng, dùng thân mình che chắn cho nàng, cuộn tròn thành một khối.
Những bóng đen ập tới, tiếng trống trận và tiếng hò hét rung chuyển cả bầu trời. Vệ Ninh Dao nằm lặng trong lòng ta, hàng mi dài bám đầy bụi, đôi môi khẽ mấp máy, rồi bỗng nàng cười:
“Đừng khóc… không đau…”
Ta bế nàng ấy lên, lảo đảo tiến về phía trước. Không biết ai đã kéo chúng ta lên lưng ngựa.
Máu của Vệ Ninh Dao theo từng nhịp phi ngựa mà bắn tung lên người ta. Ta muốn ôm chặt nàng nhưng lại sợ làm nàng đau, luống cuống lau đi những vết bụi bám trên gương mặt nàng.
Nàng ấy hẳn rất đau, chân mày khẽ nhíu lại, sắc mặt dần tái nhợt. Tay nàng run rẩy, lục tìm trong lòng rồi nhét vào tay ta một vật.
Đó là một chiếc trâm gỗ, khắc họa tiết hoa đào tinh tế, thân trâm đã được mài nhẵn bóng.
“Muội… muội khắc không được đẹp…” Giọng nàng yếu ớt, nhỏ dần như tiếng thì thầm bị tiếng vó ngựa nghiền nát: “Nhưng… muội nghĩ… có lẽ… tỷ chỉ nói đùa… nhưng… muội ngốc quá… muội không dám không coi là thật…”
Ta chợt nhớ lại. Hôm đó, nàng ấy hỏi ta muốn gì làm quà sinh thần. Ta bông đùa rằng muốn có một chiếc trâm hoa đào.
Ta chỉ đùa thôi, sao nàng ấy lại coi là thật chứ!
Ngốc quá… ngốc đến đau lòng.
Làm sao trên đời lại có cô bé ngốc thế này!
Vệ Ninh Dao dường như mệt mỏi lắm, hàng mi khép lại, ngón tay vẫn bám chặt lấy ống tay áo của ta. Nàng khẽ gọi:
“Bảo Nhi tỷ tỷ…”
Như ngày xưa, khi nàng ấy tan học ở tư thục, ta đến đón nàng về nhà. Nàng móc tay vào ngón tay ta, vừa nhảy chân sáo vừa gọi:
“Bảo Nhi! Bảo Nhi!”
Ta khi ấy đáp không biết chán: “Tiểu thư, tiểu thư.”
“Không đúng! Ta có tên cơ mà! Gọi ta là Ninh Dao! Ninh Dao!”
“Được rồi, Ninh Dao, Ninh Dao!”
Chiếc trâm hoa đào dính máu nàng, trong mắt ta như biến thành một cây hoa nở rộ, rồi chợt tàn úa không kịp níu giữ, chỉ còn lại màu đỏ chói lọi, xé nát tâm hồn ta.
Ninh Dao… Ninh Dao…
Nàng ấy khép mắt, không đáp lại nữa, bình yên chìm vào giấc ngủ.
37
Vương quân tan tác như núi đổ.
Ông ta đặt phục binh hòng đánh bại Võ Uy Tướng Quân, lại bị vây khốn trên núi, mất phân nửa binh mã.
Khi tin tức về cái chết của Tần Thế tử truyền đến, mọi hy vọng của ông ta tiêu tan. Bị cắt đứt mọi lối thoát, ông ta cùng thân tín mạo hiểm vượt núi, mong tìm đến nước địch nương náu, nhưng bị quân của Đại Công Chúa chặn tại biên giới.
Bị dồn ép từ hai phía, Tần Vương chán nản, tự vẫn bên bờ sông. Quân lính tan rã, chạy tứ tán như chim thú.
Đại Công Chúa nhân đà thắng lợi, dẹp loạn khắp nơi. Trong vòng một năm ngắn ngủi, quân còn sót lại của Tần Vương bị tiêu diệt sạch sẽ.
Ta may mắn giữ được tính mạng, dưỡng thương một thời gian tại doanh trại của Võ Uy Tướng Quân, rồi được đưa trở về Bình An trấn.
Nhưng, khi ta đi là cùng người, lúc quay về chỉ còn một mình đơn độc.
Ta ngồi lặng bên cửa sổ, nhìn cảnh ngoài kia từ vắng lặng trở nên nhộn nhịp. Người đến rồi người đi, hoa nở hoa tàn, qua một mùa đông giá lạnh rồi đón xuân mới.
Ta bệnh nặng một trận, nhiều chuyện không còn nhớ rõ. Những cô nương trong trấn tự nguyện đến chăm sóc ta, phủ Võ Uy Tướng Quân cũng sai người mang đến bổ phẩm.
Nhưng ba hồn bảy phách của ta dường như chưa về lại thân thể, cứ lơ lửng giữa cõi trần gian, để lại một cái xác không hồn.
Điều duy nhất ta nhớ rõ là đã để mất một cô bé từng cùng ta ngày đêm bên nhau.
Nàng tặng ta mười năm vui vẻ, một lần tan nát cõi lòng, và một cây trâm hoa đào. Chưa kịp nói cho nàng biết, ta yêu nàng nhiều bao nhiêu, nàng đã rời xa như tiên nữ chán chường nhân gian khổ ải, phất tay áo quay về cung Quảng Hàn, không ngoái lại lần nào.
Không biết đã qua bao lâu, ngoài phố bỗng vang lên tiếng trống chiêng náo nhiệt. Dân chúng rộn rã đón chào Võ Uy Tướng Quân khải hoàn, trải hoa đầy đường, hò reo vui mừng đón bình an trở lại.
Võ Uy Tướng Quân dừng chân trước cửa trà quán của ta, mang theo Tiểu Lăng đến cảm tạ.
Tiểu Lăng lao vào lòng ta, tiếng gọi thân thuộc kéo hồn ta trở về với thực tại:
“Bảo Nhi tỷ!”
Đầu nàng rúc vào lòng ta, mè nheo như đứa trẻ, rồi òa khóc một trận lớn.
Ta theo phản xạ xoa lưng con bé, dịu dàng dỗ: “Đừng khóc.”
Nhưng chính ta lại không kìm được nước mắt.
Ta mở bàn tay ra, trong lòng tay là cây trâm hoa đào. Đầu trâm đâm vào da thịt, cơn đau chạy dọc mười ngón tay, lan vào tim, như đang cắn xé từng mảnh hình hài của ta.
Ta sống sót qua thời loạn thế, cùng Tiểu Lăng lập mộ cho Hà chưởng quầy, an táng bà bên cạnh Tiểu Hoa.
Chúng ta thu nhặt từng thi thể của những người dân vô tội chết trong chiến loạn, đem phát bạc cứu tế của triều đình đến từng hộ gia đình.
Mùa thu năm ấy, Hoàng đế băng hà, khắp kinh đô các chùa chiền gõ ba vạn tiếng chuông.
Đó là quốc tang, thiên hạ đều hay.
Nhưng ta vẫn đứng trên đỉnh gò mộ, lặng lẽ trông coi ngôi mộ của một người, đặt trước mộ viên đường mềm cuối cùng.
Tiểu Lăng nắm tay ta, nhẹ nhàng nói: “Bảo Nhi tỷ, ngày mai muội phải theo gia gia về kinh thành. Gia gia bảo, muốn tỷ đi cùng.”
Nàng ngập ngừng một chút, thận trọng dò xét biểu cảm của ta, rồi khẽ nói:
“Có người muốn gặp tỷ… không chỉ một người.”