Lưu nương tử bị Thẩm Trường Phong dùng quan hệ kéo ra khỏi ngục sau một tháng. Hắn đến tìm ta để lý luận, đúng lúc gặp một thái giám áo đỏ mặt trắng đến tuyên chỉ.
“Lăng Thực Sơ năm xưa bảo hộ chủ nhân lập công lớn… Nay hoàng hậu nương nương hoài thai long tử, đặc biệt ban cho nữ nhi của Lăng Thực Sơ danh hiệu huyện chủ, thưởng mười đóa hộ tâm liên, một tấm biển ngự bút!”
Sắc mặt Thẩm Trường Phong khó coi đến cực điểm.
Ngày trước, phần lớn lý do ta gả cho hắn là vì hắn hứa sẽ cầu được một đóa hộ tâm liên, bảo vệ ta trọn đời.
Việc ta bỏ chồng đã khiến hắn mất hết mặt mũi, hắn đoán rằng sau khi rời khỏi sự che chở của Thẩm gia, ta sẽ sống một cuộc đời thảm hại, bị người đời khinh miệt.
Hắn chờ xem ta bẽ mặt, rồi sẽ cao cao tại thượng bố thí cho ta chút ơn huệ.
Khi thấy thái giám đến tuyên chỉ, hắn còn nghĩ rằng cuối cùng cũng đến lượt mình nhận chức.
Lần này lập đại công, không thể nào chỉ được thưởng trăm lượng vàng là xong!
Nhưng giờ đây, một thánh chỉ của hoàng hậu nương nương đã trực tiếp đạp lên mặt mũi hắn!
Minh Nhi vốn căng thẳng, nay buông lỏng cả người, bật khóc nức nở:
“Lão gia ơi! Người thấy chưa? Không cần quân công của kẻ bạc tình kia, tiểu thư nhà chúng ta cũng có thể tự mình giành lấy cuộc sống tốt đẹp sau này rồi!”
Ta nhẹ nhàng đỡ Minh Nhi dậy, bình thản dập đầu tạ ơn, rồi ban cho thái giám một bao lì xì lớn.
“Ôi dào, Lăng huyện chủ, Khâu tướng quân đứng trước mặt nương nương cả nửa ngày, nương nương bảo ban hôn sự cho hai người mà ngài ấy không chịu, nhất định muốn đợi huyện chủ tự nguyện…”
Minh Nhi lau nước mắt, nghiêm túc nhìn ta nói:
“Tiểu thư, thật ra khi người gả cho Thẩm Trường Phong, đâu phải là vui vẻ. Người vốn bạo gan, nghịch ngợm, phu nhân không cho học y thuật, người liền nửa đêm lén chép phương thuốc, giả trai đi bắt mạch, người nói làm vậy mới thấy thoải mái.
“Nhưng lão gia và phu nhân qua đời, người như giấu đi bản thân trước đây, bắt chước phu nhân mỗi ngày sáng tối vấn an, giặt giũ nấu ăn hầu hạ bà bà. Khi tập may áo, giày, tay người bị kim đâm biết bao nhiêu lỗ chỉ vì lời dặn cuối cùng của lão gia: phải sống cho tốt…”
Ta lặng lẽ nhìn Minh Nhi, vành mắt cũng đỏ hoe:
“Đây chẳng phải là đang sống tốt sao?”
Minh Nhi nở nụ cười tươi như hoa, chống nạnh tự hào nói:
“Phải đó! Tiểu thư nhà ta đã trải qua sóng gió đời này, gặp hết lang sói cõi nhân gian, nay được hoàng hậu phong làm huyện chủ, từ nay về sau chỉ có ngày lành mà sống thôi!”
Dần dần, ta trở thành một người không có tên tuổi, ai ai cũng gọi ta là “phu nhân nhà họ Thẩm”.
Ta từng nghĩ rằng, chỉ cần tuân thủ những quy tắc ấy thì sẽ có thể sống tốt, sống thẳng lưng mà không hổ thẹn.
Nhưng đổi lại, chỉ là sự sỉ nhục của Thẩm Trường Phong, những lời dèm pha của thế gian, chẳng được gì mà cũng chẳng giữ được gì.
Ngược lại, đến khi ta quyết định vứt bỏ tất cả, dám buông tay, mọi thứ tốt đẹp dường như lại tự tìm đến.
Thì ra núi có thể sập, người cũng có thể thay lòng.
Chỉ những gì nắm trong tay mình mới là đáng tin nhất.
Khâu Hạc Tuyết lần thứ không đếm nổi giúp ta và Minh Nhi gánh đầy bể nước. Lần này, ta bảo Minh Nhi giữ ngài ấy lại dùng bữa.
Hôm sau, thánh chỉ ban hôn được đưa tới.
Ta không ngờ Khâu Hạc Tuyết lại vì muốn ta an tâm mà thêm vào thánh chỉ vài lời cam kết:
“Đời này tuyệt không nạp thiếp.”
“Nếu chết trận sa trường, toàn bộ tài sản đều thuộc về Lăng Y Y, tùy ý nàng tái giá.”
“Nếu Lăng Y Y muốn hòa ly, có thể mang đi toàn bộ tài sản của cả hai.”
Nội tâm ta dâng trào, mọi người xung quanh cũng sửng sốt.
Những lời thề này, trên đời có không ít nam nhân từng thốt ra khi mặn nồng, nhưng sau đó liền quên sạch.
Ngoài những nữ nhân ngốc nghếch, chẳng ai tin rằng họ sẽ thực hiện được.
Nhưng lời thề này được viết rõ ràng trong thánh chỉ, tựa như nặng nghìn cân.
Nếu Khâu Hạc Tuyết một ngày nào đó thật sự vi phạm, chính là tội khi quân!
Nhẹ thì nghiêm trị, nặng thì liên lụy cả tộc.
Đây chẳng phải là công bố với thiên hạ rằng ngài ấy cam kết sẽ không bao giờ thất hứa sao?
Ngài ấy vốn không cần phải làm thế…
Ta đâu có kỳ vọng rằng sẽ được một đời một kiếp một đôi người.
Đêm tân hôn, ta ngồi trên giường, đầu đội khăn voan thêu tinh xảo. Không có náo nhiệt động phòng, không có người của bà bà tới dò xét, bàn tiệc đầy những món trà bánh tinh xảo dễ ăn.
Tất cả đều khác với khi ta gả cho Thẩm Trường Phong. Ta không cảm thấy mệt, mọi chuyện đều đã được Khâu Hạc Tuyết chuẩn bị chu đáo.
Một lúc lâu sau, đôi tay thô ráp của ngài ấy cẩn thận vén chiếc khăn voan trên đầu ta.
Cặp mày mắt sâu thẳm của Khâu Hạc Tuyết hiện lên trước mặt, như thể cát bụi của Mạc Bắc đều ngừng lại trong khoảnh khắc này.
“Ngày này, ta đã chờ năm năm.”
Ta để ngài ấy vụng về nhưng chân thành tháo trâm và trang sức cho ta. Không khí xung quanh dần trở nên ấm áp.
Yết hầu của Khâu Hạc Tuyết khẽ chuyển động, ta cảm thấy cổ họng khô khốc, bèn kiếm chuyện để nói:
“Thái thái thích ăn gì? Ta cũng biết nấu vài món…”
Như thể chợt nhớ ra điều gì, ngài ấy bật cười:
“Mẫu thân nói đàn gà vịt ở quê không ai chăm, nên bà đã về từ đêm qua. Sau này trong phủ, mọi chuyện đều do nàng làm chủ. Bà còn dặn chúng ta không được quấy rầy.”
Ta mở to mắt, không tin nổi:
“Sao bà đi vội thế, ta còn chưa kịp thỉnh an. Bà có dặn dò gì không?”
Khâu Hạc Tuyết xoa đầu ta, như nhìn thấu sự căng thẳng của ta:
“Từ nay đây chính là nhà của nàng, không cần sợ hãi. Nàng muốn làm gì thì làm, mở y quán hay làm việc khác đều được, không ai dám ức hiếp nàng, kể cả ta.”
Khâu Hạc Tuyết cười, chỉ tay lên trời, ta hiểu rằng ngài đang nhắc tới thánh chỉ.
Thánh chỉ mà Khâu Hạc Tuyết tự mình cầu xin, giống như một bức tường thành kiên cố, chặn mọi tổn thương ở ngoài cửa.
Trước đây, mẫu thân ta từng nói, nữ nhân sống trên đời vốn dĩ như tồn tại trong khe hở. Đối ngoại không bị điều tiếng, đối nội giữ được bình yên, nếu không sẽ là một đời thất bại.
Nữ nhân sống trên đời chẳng khác gì bước đi trên lưỡi dao.
Nhưng nay, ta là huyện chủ, lại có thánh chỉ trong tay, phụ thân cũng được truy phong làm ngự y chính, dường như mọi thứ đã thật sự khác hẳn trước kia.
Mắt ta chợt cay cay, ta chủ động nắm lấy tay Khâu Hạc Tuyết.
Khâu Hạc Tuyết siết chặt tay ta, thuận thế kéo ta vào lòng, ôn tồn đáp:
“Phải là ta cảm tạ nàng mới đúng.
“Ta hơn nàng những tám tuổi, lại là kẻ thô lỗ mà nàng vẫn nguyện ý gả cho.
“Ta đã rời khỏi hầu phủ, không còn ai bận tâm đến sự sống chết của ta. Chiến trường dao kiếm vô tình, ai biết ngày nào ta sẽ bỏ mình nơi sa trường…”
Ánh mắt ngài ấy thoáng hiện vẻ ưu tư.
Lòng ta chợt đau nhói, theo bản năng đưa tay che miệng ngài ấy lại:
“Đừng nói nhảm, chúng ta đều sẽ sống tốt mà.”
Ngón tay ta bỗng cảm giác như bị một con mãnh thú khẽ liếm. Đôi mắt sáng rực của ngài ấy nhìn ta, tựa hồ đầy mong đợi.
Ta giật mình rụt tay lại, nhưng không cẩn thận chạm vào ngực ngài ấy, nghe thấy một tiếng rên nhẹ.
“Chàng… chàng làm sao vậy?”
“Không sao, chỉ là chút vết thương nhỏ thôi.”
Áo lót trắng trên ngực ngài ấy dần thấm đỏ. Ta hoảng hốt vội vàng kéo áo ngài ấy ra xem, không ngờ lại dễ dàng cởi đến vậy.
Khâu Hạc Tuyết mỉm cười, cầm lấy tay ta, nói:
“Nương tử, còn chỗ này cũng đau lắm, nàng xem giúp ta đi…”
Việc Khâu Hạc Tuyết cưới ta làm khiến cả kinh thành xôn xao, nhất là khi ta là một nữ nhân tái giá. Dù ngoài mặt không nói gì, nhưng sau lưng đã dấy lên đủ loại lời đồn.
Ban đầu là những bài ca không hay truyền trong miệng đám ăn xin nơi đầu đường:
Rằng một mỹ nhân lén lút ngoại tình khi phu quân ra trận, ngược đãi bà bà già và muội muội nhỏ.
Rằng một quan lớn cưỡng ép chính thê của cấp dưới, phá nát đôi uyên ương bằng thế lực.
Rằng vị đại tướng si mê sắc đẹp, hết lần này đến lần khác trì hoãn ngày xuất chinh…
Về sau, các tửu lâu trà quán còn mời thầy kể chuyện đến biên soạn và diễn kể. Chuyện lan truyền đến mức khiến thánh thượng phải triệu Khâu Hạc Tuyết vào cung.
Khi ngài ấy trở về, trên người dính đầy vết trà và mảnh sứ vỡ, ngay cả hoàng hậu nương nương cũng bị liên lụy mà chịu khiển trách.
Ta lo lắng đứng chờ trước tường cung dài dằng dặc. Gió đông lạnh buốt cứa vào da thịt như dao cắt.
Từ xa, một bóng người cao lớn bước lại, thấy ta liền tăng tốc, nụ cười thoáng nở trên môi hắn. Dù trên người dính đầy vết trà, khí chất của ngài ấy vẫn không chút suy giảm.
“Gió lớn, lần sau hãy đợi ta ở nhà.” Giọng ngài ấy trách cứ, nhưng ẩn chứa sự vui vẻ không thể giấu nổi.
Ngài ấy cởi áo choàng phủ kín lấy ta.
Ta mím môi, giọng trầm xuống:
“Chẳng lẽ thánh thượng tin những lời đồn kia?”
Khâu Hạc Tuyết xoa xoa hai tay cho ấm rồi nhẹ nhàng áp lên má ta: “Đừng lo, biên cương bất ổn, thánh thượng sẽ không vì vậy mà động đến ta.”
Nhưng lòng ta vẫn không yên, tay nắm chặt lấy tay áo hắn, lặng lẽ cùng ngài ấy về nhà mà không nói lời nào.
Ngày hôm sau, Khâu Hạc Tuyết ra ngoài. Không lâu sau, lời kể của các thầy chuyện trong kinh thành bắt đầu chuyển hướng, giờ lại tập trung vào chuyện nhà họ Thẩm.
Rằng lão bộc trong phủ lén cầm đồ của Dương Phạm Nhi đi cầm cố để lấy tiền mua thuốc cho lão thái thái, nhưng bị bắt quả tang.
Rằng Dương Phạm Nhi bụng to vượt mặt, đánh bà lão đến thừa sống thiếu chết ngay trước mặt bà bà.
Rằng nàng ta bị phạt quỳ trong từ đường giữa trời đông giá rét, đến nửa đêm thì sảy thai.
Mất đi đứa con, Dương Phạm Nhi và Thẩm Trường Phong cãi nhau kịch liệt, thậm chí còn động tay động chân. Hai người ra ngoài thường xuyên mang theo vết thương trên mặt.
Câu chuyện “kỳ duyên chiến trường” ngày nào giờ trở thành bi kịch được bàn tán khắp kinh thành.
Còn ta, mỗi ngày đều nghiên cứu sổ tay y học mà Khâu Hạc Tuyết tìm được trong cung.
Không biết có phải do ảo giác không, nhưng ban ngày ta luôn cảm thấy có ai đó dõi theo mình.
Lần theo ánh mắt nhìn lại, ta chỉ thấy một góc áo màu tím.