4
Ngày về thăm nhà, Tạ Thúc chuẩn bị cho ta rất nhiều đồ đạc, đủ chất đầy ba cỗ xe ngựa.
Chỉ là ta không ngờ, Hoàng Thượng cũng có mặt ở nhà ta.
Thật là… quá kinh ngạc đi…
Hoàng Thượng ngồi ở vị trí của cha ta khiến căn nhà rách nát này như hóa thành ngự tọa.
Vừa vào cửa, ta vội vàng cúi đầu trước ánh mắt của cha:
“Thảo dân tham kiến Hoàng Thượng, vạn tuế vạn vạn tuế.”
Hoàng Thượng trông chừng ba mươi tuổi, mặt nghiêm nghị, nhận chén trà cha ta đưa qua, nhấp một ngụm rồi nhíu mày:
“Ngươi là Hứa Phù Cừ?”
“Khởi bẩm Hoàng Thượng, chính là thảo dân.”
Ta nghe thấy Hoàng Thượng gõ nhẹ ngón tay lên bàn, nghe ông hừ một tiếng đầy bực bội.
Đây là làm cái gì vậy?
“Ngươi đứng lên đi.”
Ta như được đại xá, cha ta vội đến đỡ ta dậy.
“Bệ hạ, tiểu nữ tuổi nhỏ, e rằng khó có thể gánh nổi nhiệm vụ này, vẫn là để thần đi thì hơn.”
Hoàng Thượng nói:
“Hứa Mặc, ngươi theo trẫm nhiều năm rồi, hẳn phải biết Tướng Quân phủ như một cái thùng sắt, người trong đó đều luyện võ, ngươi đi… không chừng lại như nửa tháng trước, bị thương đầy mình mà quay về?”
Phụ thân ta, Hứa Mặc, nghe vậy thì cúi đầu, ta nghe vậy dường như hiểu ra được chút gì đó.
Hoàng Thượng cuối cùng cũng nhìn thẳng vào ta:
“Hứa Phù Cừ, trẫm giao cho ngươi một nhiệm vụ. Nếu thành, bảo đảm Hứa gia nhà ngươi vinh hoa phú quý cả đời.”
Ta cẩn thận ngước mắt lên:
“Vậy nếu không thành…”
Hoàng Thượng đầy khí phách:
“Không thành, nhà ngươi cả họ sẽ bị tru di!”
Ta sợ run người:
“Nhiệm vụ gì ạ?”
“Chuyện Tạ gia đầy rẫy bí ẩn, ngươi điều tra rõ xem người Tạ gia là chết thật hay chết giả.”
Ta phản xạ đáp:
“Sao có thể là chết giả!”
Hoàng Thượng lập tức nhìn ta:
“Ngươi biết gì sao?”
Ta nhanh chóng cúi đầu:
“Thảo dân tuy vào Tạ phủ chưa lâu, nhưng Tạ gia tuyệt đối trung thành với Thánh Thượng!”
“Trẫm không cần lời nói một phía của ngươi, điều tra rõ ràng lấy chứng cứ mà nói chuyện.”
Đến khi ngồi lên xe ngựa, ta mới dần dần bình tâm lại.
Hoàng Thượng là nghi ngờ Tạ gia giả chết cấu kết với địch hay là nghi ngờ Tạ gia giả chết để tránh chiến tranh?
Ta nghĩ mãi không ra.
Nhưng theo những ngày qua quan sát Tạ phủ, hai khả năng đó đều không thể nào xảy ra.
Ta vén rèm lên nhìn thấy Tạ Thúc và Phồn Cô Cô đang đi bên cạnh xe ngựa, hai người họ vẫn chưa biết chuyện gì đã xảy ra.
Trong lòng ta dâng lên một nỗi xót xa.
Họ vì vua vì dân mà chết trận sa trường, sau khi chết lại còn khiến vua nghi ngờ, nhà cửa thì bị truyền là nơi ma quái.
Thật là không đáng chút nào.
Người thân của họ đã sớm qua đời, nhưng họ vẫn ở lại, bảo vệ căn nhà cũ này, bảo vệ linh hồn những anh hùng nơi chiến trường.
5
Ta suy nghĩ suốt một đêm, cuối cùng nghĩ ra một cách tuyệt diệu.
Trước tiên, mượn cớ tu sửa để ghi nhớ toàn bộ kết cấu Tạ gia, rồi đêm đến lần lượt thăm dò.
Chuyện này tuyệt đối, tuyệt đối không thể để họ biết được. Nếu không chẳng phải sẽ làm lạnh lòng họ hay sao.
Ta cứ nghĩ sẽ gặp khó khăn trùng trùng, không ngờ Tạ Thúc lại mang toàn bộ bản vẽ của cả phủ đến ngay trong ngày hôm đó.
Ta giả vờ trầm tư đóng cửa lại, lấy ra một tờ giấy trắng, làm bộ viết viết vẽ vẽ.
Phủ Tạ gia thật là lớn a! Nếu phải tìm từng chỗ thì thật quá sức. Vì vậy ta cẩn thận khoanh tròn vài nơi quan trọng.
Biển hiệu trong sảnh chính, nghe nói là do trưởng bối Tạ gia tự tay viết, đã treo mấy chục năm rồi.
Thư phòng, nơi này thường có rất nhiều bí mật.
Từ đường, nhìn là biết rất quan trọng, nếu có thứ gì đó, có lẽ Tạ Thúc sẽ để ở đây.
Thêm một nơi nữa, là phòng của Tạ Thúc, có vài thứ không chừng cần phải giữ bên mình.
Đêm đến, ta cầm bản vẽ, bắt đầu hành động.
Nhẹ nhàng đóng cửa lại, vừa qua hành lang thì thấy ở hoa sảnh phía trước có một người đang ngồi.
Dưới ánh nến mờ ảo, bóng hoa giao thoa, người ấy cúi đầu viết gì đó.
Ta định vòng qua để rời đi, không ngờ lại vô ý giẫm lên một cành cây khô rơi trên đất.
Lạ thật, Tạ Thúc ngày nào cũng quét dọn, tỉa cây, sao lại có cành cây khô?
Thiếu niên kia nghe thấy tiếng động, nhìn về phía ta, ta đành giấu bản vẽ ra sau lưng, làm bộ như vô sự tiến tới:
“Ngươi đang viết gì vậy?”
Thiếu niên đặt bút xuống:
“Phu nhân trang an.”
Ta sững người, chỉ thấy trên giấy của cậu ấy viết—
“Một chiều quạ lạnh đầy buồn, Liễu xanh bờ suối ngọt ngào chốn đây. Nếu không sầu biệt chia tay, Nào tin trần thế có ai bạc đầu.”
Ta nói: “Xin lỗi, đã làm phiền ngươi rồi.”
Thiếu niên cười khoát tay:
“Không có gì. Thiếu phu nhân khuya vậy còn đi đâu?”
Ta cũng khoát tay:
“Dạo quanh thôi, ha ha ha.”
“Thiếu phu nhân nếu không có việc chi, sao không đi dạo cùng tại hạ?”
Thiếu niên đứng dậy tiến đến gần, mắt phượng như tranh, đôi mắt tựa như mang ánh sao.
Ta hơi lùi lại:
“Có việc, ha ha ha.”
Ta ý nhấn mạnh:
“Ta hơi buồn ngủ rồi, về ngủ trước đây.”
Thiếu niên giọng đầy vẻ thất vọng:
“Vậy cũng được, phu nhân nghỉ sớm.”
Ta như chạy trốn mà biến mất khỏi hoa sảnh. Mãi đến khi vòng qua góc hành lang ta mới thở phào nhẹ nhõm.
Vỗ vỗ ngực đang đập thình thịch, ta lấy bản đồ từ trong túi, vừa quay đầu lại liền thấy hai người áo đen, hai bên trừng mắt nhìn nhau.
“A a a a a a a!”
“A a a a a a a!”
Ta ngồi phịch xuống đất, hai người kia hét xong lập tức nắm lấy nhau chạy ngược về phía bên kia.
Ta lập tức bật dậy:
“Không phải! Hai người chạy cái gì!”
Hai người họ chẳng mấy chốc đã biến mất, ta đứng tại chỗ mới phát hiện bản đồ cũng đã rơi mất.
“Trời ơi! Hai ngươi là cướp à!”
6
Chờ đến khi hai người kia đi xa, ta mới dựa vào trí nhớ mà tìm đến đại sảnh.
Đây là lần đầu tiên ta đến nơi này, trên bức biển phía sau viết bốn chữ lớn “Tinh Trung Báo Quốc,” nét bút mạnh mẽ cương nghị, đây là bức thư pháp do Tiên Đế tự tay viết ban cho Tạ gia, là niềm vinh dự của Tạ gia.
Ta cầm đèn nến chiếu sáng từng góc của bàn ghế sơn mài khắc hoa, đặt đèn lên bàn, rồi di chuyển ghế lại, đứng lên mới đủ tầm nhìn thấy biển hiệu.
“Wow!”
Biển hiệu này thật được coi trọng, ngay cả phía sau cũng không có chút bụi nào.
Tuy nhiên, ta vẫn nhìn thấy thứ gì đó.
Một phong thư đã ngả vàng nằm im lặng ở đó….
Ta nhặt phong thư lên, nhảy xuống ghế, khôi phục mọi thứ về chỗ cũ rồi lén lút trốn vào sau rèm.
Dưới ánh nến chập chờn, từng chữ trên giấy lần lượt hiện ra.
“Kính gửi đại cô yêu dấu của chất nhi, chất nhi biết mình sai rồi! Nhưng mà cô cô cũng nên tha thứ cho chất nhi, vì do người trước tiên bắt con cóc dọa ta, còn lừa ta ra sông không có cá để bắt cá!”
Ký tên, Tạ Lâm Sanh.
Ta lật qua lật lại xem, hết rồi, cũng chỉ có mấy câu như vậy.
Tạ gia không phải gia tộc lâu đời, người mà ta lấy chính là con út của Tạ gia, chỉ biết tiểu danh là Tiểu Ổn.
Tạ gia đời trước có ba vị tướng quân, Tạ Thành Quân, Tạ Thành Chung, Tạ Thành Hoa, trong đó chỉ có Tạ Thành Hoa là nữ nhi.
Nghe nói bà ấy vừa giỏi văn vừa giỏi võ, ba tuổi biết làm thơ, bảy tuổi cưỡi ngựa, mười tuổi đã cầm kiếm ra chiến trường.
Ban đầu theo huynh trưởng ra trận, sau đó tự mình dẫn binh thống lĩnh.
Người có thể được gọi là “đại cô” chắc chỉ có vị nữ tướng này.
Dù chỉ vài dòng ngắn ngủi, cũng đủ để thấy sự hòa thuận ấm áp của Tạ gia lúc bấy giờ.
Nhưng Tạ Lâm Sanh là ai?
Cùng thế hệ với Tạ Tiểu Ổn có ba thiếu niên, nhưng tất cả đã về với cát bụi, ta cũng không thể tra được nữa.
Ta cất phong thư, chuẩn bị đi xem thư phòng.
Vừa ra khỏi cửa, đã thấy bên cửa sổ có hai bóng đen đột ngột xuất hiện. Ta lập tức thu mình lại.
Ta chắp tay khấn niệm:
“A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, ta biết ta rất xui xẻo, nhưng hôm nay chuyện này quan trọng lắm! Ông trời đừng đùa ta! Ta coi ông như gia gia, ông nhất định phải coi ta là tôn tử đấy, ông trời ơi!”
Rồi giả như không thấy gì, mắt không nhìn ngang dọc gì nữa, mạnh mẽ bước ra ngoài.