Skip to main content
Generic selectors
Exact matches only
Search in title
Search in content
Post Type Selectors
blank
Xin chào

Chương 7

8:43 chiều – 27/12/2024

29

 

Lần ấy, trên đường từ chùa Vi Sơn hồi kinh, khi Tạ Trì bị thích khách tập kích, trọng thương nằm trên giường bệnh, ta tiện miệng nói với hắn:

“Bệ hạ có biết không? Thần thiếp đã từng thật lòng thích ngài.

“Đặc biệt là lần ngài cứu thần thiếp. Khi ấy ngài cõng thần thiếp, bước qua biển hoa xanh bên bờ sông. Thần thiếp sẽ mãi ghi nhớ.”

Đổi lại, Tạ Trì chỉ cười lạnh chế giễu.

Hắn không nhận ra, ta không hề bày tỏ tình cảm.

Ta đang thử hắn.

Ta là người khó động lòng, đối với Tạ Trì, cùng lắm chỉ có vài phần thiện cảm, làm sao có thể “thật lòng thích” hắn?

Biển hoa xanh ấy, Tạ Trì không hề phủ nhận hay sửa lại.

Nhưng thực tế, lần ta bị cuốn vào dòng lũ, đầu đập vào khúc gỗ trôi, khi tỉnh lại ta đã mất đi thị lực.

Cả thế giới đều là bóng tối.

Nếu thực sự có biển hoa, ta cũng không thể phân biệt được màu sắc.

Vả lại, bờ sông ấy chỉ toàn là mộ hoang.

Từ giây phút đó, ta đã chắc chắn—người cứu ta không phải Tạ Trì.

Năm ấy, khi ta bị lũ cuốn, có thể cảm nhận được có người giữa dòng nước xiết, gắng sức kéo ta lên.

Khi ta tỉnh lại, đôi mắt tạm thời không nhìn thấy gì.

Khắp người đầy vết thương do va đập vào đá và gỗ vụn.

Áo ngoài ướt sũng đã bị cởi ra, chỉ còn lại lớp y phục lót bên trong, nước vẫn nhỏ từng giọt, khiến ta rét run.

Bên cạnh có hơi ấm, thỉnh thoảng vang lên tiếng lách tách—có lẽ là một đống lửa.

Ta lần mò theo làn hơi ấm, tìm được chiếc áo ngoài đã hong khô một nửa, khoác lên người.

Cầm một nhánh cây dò đường, ta dần dần nhận thức được mình đang ở đâu—một căn nhà dột nát, cỏ dại mọc đầy sàn.

Bùn đất trước cửa lẫn với cát mịn, ta đoán hẳn là gần bờ sông.

Có lẽ ta đã bị cuốn đến trung lưu hoặc hạ lưu con sông lớn bên ngoài kinh thành, nơi hoang vắng, nhà cửa cũ kỹ đã bị bỏ hoang, có thể là vùng ven Lâm Châu.

Nơi này không có người ở, vì vậy người cứu ta không thể là dân làng qua đường.

Hẳn là người đã nhảy xuống dòng nước để cứu ta ngay từ đầu.

Khi ta đang dò dẫm tìm hiểu hoàn cảnh xung quanh, một giọng nói trong trẻo của thiếu niên vang lên đột ngột:

“Ngươi không sợ sao?”

Ta ngước nhìn lên, nhưng trước mắt chỉ là một màu đen kịt.

Năm ấy ta mới mười tuổi.

Nếu là con gái bình thường trong gia đình, gặp nguy hiểm lại lạc vào nơi xa lạ, thêm cả việc đột ngột mất đi ánh sáng, lẽ ra phải hoảng sợ tột độ.

Nhưng ta không sinh ra trong gia đình bình thường.

Là đích nữ được cả gia tộc Giang thị dốc lòng bồi dưỡng, từ nhỏ ta đã được dạy rằng—dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ được vẻ cao quý, đoan trang và bình tĩnh.

Ta chăm chú lắng nghe giọng nói của thiếu niên, giọng nói vẫn còn mang theo sự trong trẻo non nớt:

“Ngươi đứng đó nhìn ta từ đầu phải không?”

Ta không hề nghe thấy tiếng bước chân nào.

Thiếu niên bật cười, từng bước một giẫm lên sỏi đá, cỏ dại mà tiến đến gần ta, kéo nhẹ tay ta, vỗ vỗ ống tay áo rồi đặt vào tay ta một thứ gì đó.

Hắn nói:

“Rõ ràng là rất sợ, tay áo bị nắm nhăn hết rồi.”

Trong bóng tối, ta siết chặt thứ trong tay—là một quả gì đó mềm mại, dường như đã chín rục.

Ta đúng là đang đói.

Nếu hắn đã cứu ta thì chắc chắn không có ý hại ta, vì vậy ta chẳng chút do dự mà cắn một miếng.

Hương vị ngọt lịm tan trong miệng—là một quả hồng dại chín mọng.

Hắn chậm rãi trả lời câu hỏi của ta từ lâu:

“Ta vừa ra ngoài tìm thuốc, mới quay lại.”

Thì ra hắn không hề đứng đó nhìn ta loay hoay từ đầu.

Bước chân trước đó không gây ra chút tiếng động, chắc hẳn hắn là người tập võ.

Còn bây giờ cố tình bước nặng nề, có lẽ vì biết ta bị mù, để ta có thể yên tâm, luôn nhận ra vị trí của hắn.

Chu toàn, tỉ mỉ đến từng chi tiết, khiến ta cảm giác như hắn quen biết ta từ lâu.

Ta hỏi hắn là ai, nhưng thiếu niên lại không chịu trả lời.

Ta cũng không truy hỏi thêm.

Hắn nói đây là một chuồng bò bỏ hoang, cách kinh thành rất xa, quan binh khó lòng tìm đến.

Nơi đây không có bóng người, càng chẳng có y sư.

Hắn tìm được một ít thảo dược gần đó, giã nát rồi bôi lên vết thương của ta.

Ta lớn lên trong nhung lụa, thân thể mảnh mai, làn da mềm mại dễ tổn thương, trên người chi chít những vết thương nhỏ.

Ta chẳng bận tâm gì đến ranh giới nam nữ, thản nhiên vén tay áo để hắn bôi thuốc, dù sao ta cũng chẳng thể tự làm.

Cảm giác lạnh lẽo và rát buốt từ thảo dược xâm nhập vào vết thương, đau nhói đến tận xương tủy, nhưng ta không hề rên rỉ.

Toàn thân đều được băng bó cẩn thận, nhưng ta vẫn ngửi thấy mùi máu tanh.

Thiếu niên châm chọc:

“Đau đến thế mà chẳng khóc lấy một tiếng.”

Ta không khóc, cũng chẳng cười, bỗng vươn tay nắm lấy ống tay áo hắn, lần mò trên người hắn.

Hắn bối rối:

“Ngươi muốn trêu ghẹo ta sao?”

Rồi lại tự mình đáp:

“… Cũng không phải là không được, nhưng chờ ngươi lớn thêm chút đã.”

Ta phớt lờ lời nói đùa vô nghĩa của hắn.

Không ngoài dự đoán, đầu ngón tay ta chạm vào một mảng dính ướt.

Khi đưa lên ngửi, đó là mùi máu.

Hắn bị thương, và là vết thương rất nặng.

Hắn lại kéo lê thân mình đầy thương tích, trèo đèo lội suối tìm thuốc cho ta, băng bó những vết thương nhỏ nhặt trên người ta.

Giọng nói hắn vẫn nhẹ tênh, không hề để lộ chút đau đớn nào.

Máu vẫn rỉ ra từ vết thương.

Ta kinh ngạc:

“Ngươi muốn chết sao?”

Thiếu niên im lặng hồi lâu, rồi bật cười khẽ:

“Không chết được, ta mạng lớn.”

Những ngày sau đó, hắn cõng ta đi qua núi rừng đầy rắn rết, tìm thuốc, mỗi ngày đều bôi thuốc cho ta trước, sau đó mới tự băng bó vết thương cho mình.

Hắn xé tấm áo choàng của ta, mỗi khi đi qua một nơi, đều để lại một mảnh, tiện cho quan binh tìm kiếm.

Vết thương nặng nhất là do một mảnh đá nhọn đâm vào bụng hắn khi ở dưới nước, rất lâu sau máu mới ngừng chảy.

Mùi máu tanh thu hút dã thú.

Nửa đêm, tiếng sói tru vang lên, hắn đưa cho ta một con dao ngắn để phòng thân, bản thân thì cầm cành cây cháy dở canh giữ ngoài cửa, đề phòng dã thú rình mò.

Khu vực này là thôn làng hoang phế, cỏ dại mọc um tùm.

Trong cánh đồng hoang có thể nhặt được ít lúa dại, cạnh đó là một cây hồng bị dây leo quấn chặt, héo úa, chỉ còn vài quả, nhưng ngọt lịm vô cùng.

Những quả hồng đó cùng với nồi cháo nấu từ lúa dại đều dành cho ta.

Thiếu niên chỉ ăn cỏ dại qua bữa.

Hắn còn áy náy, nghĩ rằng ta vốn quen ăn sơn hào hải vị, nay lại phải ăn những thứ này.

Vì vậy hắn tìm mọi cách săn thỏ rừng, gà rừng để nướng cho ta.

Ta ăn không nổi, khuyên hắn hãy giữ lại chút thức ăn cho bản thân.

Thiếu niên suy nghĩ một lát, bỗng thản nhiên:

“Vậy… ngươi đút cho ta ăn là được.”

Ta cầm một cái đùi thỏ nướng, nhét vào miệng hắn.

Dần dần, ta quen với việc không nhìn thấy, có thể di chuyển tự do trong không gian quen thuộc.

Trong tiếng lửa bập bùng, tiếng sói tru lại vang lên.

Khuôn mặt thiếu niên đang tươi cười lập tức trở nên nghiêm nghị, dặn dò ta không được ra ngoài.

Hắn cầm gậy gỗ và mảnh dao cũ, lặng lẽ vòng ra sau chuồng bò.

Ta nắm chặt con dao ngắn trong tay, lo lắng lắng nghe tiếng đánh nhau, đấu tranh giữa muốn giúp hắn và sợ cản trở.

Chẳng biết bao lâu, mọi thứ mới yên tĩnh.

Thiếu niên lê bước quay lại, mỗi bước đều in dấu máu.

Giọng hắn vẫn nhẹ nhàng như trước:

“Đi thôi… khụ khụ—”

“Đi mau… khụ khụ khụ—”

Hắn đột nhiên ho dữ dội, hiển nhiên là lại bị thương.

Ta vội vàng bước tới, chưa kịp hỏi han đã bị hắn nắm chặt lấy tay.

Hắn thở dốc, giọng nói khàn khàn nhưng gấp gáp:

“Đi mau, mùi máu quá nặng, sẽ dẫn dã thú tới. Đây chỉ là con sói đi dò đường.”

Ta lập tức hiểu ra.

Sói là loài đoàn kết, có thù tất báo.

E rằng chẳng bao lâu nữa, cả đàn sói sẽ kéo đến.

Hắn không thể một mình chống lại cả bầy dã thú, phải nhanh chóng rời khỏi nơi này.

Thiếu niên dập tắt đống lửa, dùng cành cây vẽ lên nền đất một ký hiệu chỉ hướng, phòng khi có người tới tìm, sẽ nhận ra mà tiếp tục truy tìm tung tích của ta.

Ta không nhìn thấy gì, nhưng hắn cõng ta lên lưng, từng bước một tiến vào màn đêm.

Tiếng sói tru vang vọng, khó phân rõ gần xa.

Thỉnh thoảng lại nghe thấy những tiếng gầm gừ của dã thú không rõ tên, tiếng cú rúc rợn người giữa rừng sâu, và cả tiếng côn trùng kỳ lạ.

Trong bóng tối, mọi âm thanh đáng sợ đều bị phóng đại đến cực điểm.

Ta giữ vẻ mặt bình thản, tỏ ra điềm tĩnh.

Nhưng thực ra, tay ta đã siết chặt vạt áo hắn.

Hắn không nói gì, nhưng dường như cảm nhận được.

Bàn tay ấm áp của thiếu niên khẽ vỗ nhẹ lên tay ta, như muốn trấn an.

Giữa mịt mù rừng núi, ta nghe thấy nhịp thở của hắn, mạnh mẽ và kiên định, từng bước chân vững chãi.

Tựa như tất cả dã thú bên ngoài đều không đáng sợ bằng tấm lưng mà ta đang tựa vào.

Thiếu niên bước đi rất nhanh, nhưng giọng nói lại thong dong, thậm chí có phần lắm lời.

Ngay trong lúc căng thẳng và hoảng loạn ấy, hắn cố tình kể chuyện ma quái, khiến ta vừa nghe vừa muốn khâu miệng hắn lại.

Nhưng hắn lại bật cười, dịu dàng dỗ dành:

“Được rồi, không kể nữa, đổi sang chuyện khác nhé.”

Rồi hắn bắt đầu từ sông núi phong cảnh, kể đến những chuyện ly kỳ trong dân gian, sau cùng là cung đình bí sử.

Thiếu niên hiểu biết sâu rộng, lại có tài ăn nói, dù là câu chuyện bình thường nhất qua lời hắn cũng trở nên cuốn hút.

Đêm dài dần trôi, ta nghe mãi, dần dần thiếp đi, đầu gật gù trong cơn mơ màng.

Nửa tỉnh nửa mê, ta chợt nhận ra—hắn đang cố làm ta bớt sợ.

Hắn không nói thẳng ra nỗi bất an trong lòng ta.

Hắn kể chuyện ma quái để ta xao nhãng, chuyển sự chú ý từ tiếng sói tru sang hắn.

Sau đó, hắn lại kể những chuyện thú vị để xua tan sự căng thẳng.

Hắn còn nói, đêm nay trăng sáng, ánh trăng khiến đường ven sông dễ đi hơn, bên sông nở đầy hoa dại, đẹp vô cùng.

“Không cần sợ hãi, nguy hiểm đã ở phía sau, dưới chân chỉ còn biển hoa bất tận.”

Dù buồn ngủ, ta vẫn giữ lý trí, liền hỏi:

“Là hoa màu gì?”

Thiếu niên không do dự, đáp ngay:

“Màu xanh.”

Ta lặng người:

“Cuối thu rồi, làm gì có biển hoa nào?”

Hắn bị ta vạch trần, nhưng không hề tức giận, chỉ khẽ bật cười.

Cuối cùng, ta vẫn không chống lại cơn buồn ngủ mà thiếp đi.

Khi tỉnh dậy, trời đã sáng.

Ánh sáng ban mai mờ ảo len qua lớp lụa mỏng che mắt ta, để lại chút le lói.

Đôi mắt ta đã dần hồi phục, có thể cảm nhận được chút ánh sáng.

Nỗi hoảng loạn đêm qua tan biến trong ánh mặt trời rực rỡ.

Sau này, ta mới biết được—đêm đó, bờ sông là nơi đầy rẫy những nấm mồ hoang và bộ xương cũ, lạnh lẽo và cô tịch.

Khi quan binh đến tìm, tiếng chó sủa và vó ngựa còn xa xa, thiếu niên đã rời đi trước, lặng lẽ không từ biệt.

Ta nhạy bén phát hiện ra sự vắng mặt của hắn.

Kéo lớp lụa mỏng che mắt xuống, bất chấp đôi mắt còn đau nhói khi tiếp xúc với ánh sáng, ta cố gắng mở to, nhìn theo hướng hắn rời đi.

Đôi mắt chưa lành hẳn, chỉ thấy một bóng dáng trắng mờ nhạt trong nền trời xanh thẳm, thấp thoáng giữa những mảng màu nhòe nhoẹt.

Bóng dáng ấy cô độc, xa xăm.

“Tiểu thư! Tiểu thư ở đó!”

Giọng nói của Vân Châu vang lên đầy mừng rỡ.

Cung đình, kinh thành, Giang gia, quan phủ, tất cả đều phái người đi tìm ta.

Họ lần theo những mảnh vải xé từ áo choàng của ta, tìm đến chuồng bò cũ kỹ ấy.

Lúc họ đến, bên cạnh ta chỉ có một quả hồng chín đỏ đặt trên tảng đá lớn.

Ta cầm lên, trong lòng lưu luyến, nhưng biết rằng không thể giữ lâu, nên nhắm mắt cắn từng miếng, chậm rãi ăn hết.

Có lẽ hắn lo lắng thanh danh của ta, nên đã rời đi trước khi người đến.

Ta cũng không kể với ai về thiếu niên bí ẩn đó, chỉ nói rõ đầu đuôi với phụ thân.

Phụ thân ta nói, đại ân như vậy, nhất định phải báo đáp.

Tiên hoàng đặc biệt phái ngự y giỏi nhất trong cung tới, đủ loại dược liệu quý giá như nước chảy vào phủ.

Mắt ta rất nhanh đã khỏi.

Khi nhìn lại được, ta vẽ một bức tranh giao cho phụ thân.

Là chân dung thiếu niên ấy.

Ta chưa từng thấy rõ mặt hắn, nhưng khi hắn ngủ, ta đã lén sờ qua đường nét gương mặt.

Phụ thân cầm bức tranh, bí mật cho người tìm kiếm khắp kinh thành.

Sau khi điều tra kỹ lưỡng, ông nói với ta rằng, thiếu niên đó hẳn là lục hoàng tử—Tạ Trì.

Ta sững sờ hồi lâu, nhớ lại dáng vẻ lạnh nhạt của hắn trong trang viên.

Quả thực, khi ta bị cuốn vào dòng nước, chính hắn là người nhảy xuống cứu.

Tướng mạo, tuổi tác, thời điểm xuất hiện—mọi thứ đều trùng khớp.

Khi ấy, phụ thân và mẫu thân mang theo nhiều châu báu đến tạ ơn quý phi và Tạ Trì.

Phụ thân nhẹ nhàng thăm dò:

“Thật cảm kích điện hạ đã cứu giúp, tiểu nữ nói điện hạ còn hái quả cho nàng ăn. Nàng cứ nhắc mãi, bảo rằng quả lựu nhỏ nhưng ngọt vô cùng, còn bảo ca ca nàng tìm về trồng.”

Quý phi khựng lại một chút, sửa lời:

“Đại nhân nhớ nhầm rồi, hình như là quả hồng thì phải?”

Phụ thân vỗ trán:

“Ai dà, lão thần nhầm lẫn, đúng là quả hồng.”

Dăm ba câu tưởng chừng như vô thưởng vô phạt, phụ thân đã xác nhận Tạ Trì chính là ân nhân cứu mạng ta.

Từ đó, ông chân thành báo đáp, giúp đỡ ngoại tộc của quý phi.

Không lâu sau, Tạ Trì tiến vào điện, quý phi kéo hắn tới, cười nói:

“Thật có duyên phận, chi bằng kết mối hôn sự từ sớm.”

Phụ thân không đáp lời, quý phi cũng không nhắc lại.

Bà không nhận châu báu và lợi ích, chỉ cười nói:

“Cứu người không vì những thứ này.”

Từ đó, phụ thân đặc biệt chiếu cố lục hoàng tử.

Nghĩ lại, khi ấy Tạ Trì suốt dọc đường đều lạnh mặt, trầm mặc không nói.

Có lẽ không phải vì hắn vốn tính lãnh đạm, mà bởi mẫu phi ép hắn nhận công lao không thuộc về mình.

Hắn không cam lòng, nhưng cũng không phản kháng, đành giữ mãi vẻ mặt cứng đờ như vậy.

Mẫu phi của Tạ Trì là một quý nữ xuất thân thế gia điển hình, tâm tư sâu xa, toan tính kỹ lưỡng.

Có lẽ bà đã nghe tiên hoàng kể đôi chút về chuyện ta được tìm thấy khi đang ôm quả hồng, cắn dở không chịu rời đi, nên đoán được vài điều.

Vậy nên bà mới có thể ứng phó trót lọt trước sự thăm dò của phụ thân ta.

Muốn trực tiếp cầu thân nhưng bị từ chối, bà liền lùi một bước, không nhận bất kỳ lễ tạ nào, khiến phụ thân ta thêm vài phần kính trọng.

Giang gia là một thế gia lớn, đích nữ của Giang gia từ nhỏ đã được tiên hoàng sủng ái, luôn được nuôi dạy theo chuẩn mực của một hoàng hậu tương lai.

Việc bà dẫn dắt Tạ Trì nhận lấy ân cứu mạng ta, chẳng qua chỉ là để giành lấy sự tín nhiệm từ ta và Giang gia, gia tăng lợi thế trong cuộc tranh đoạt ngôi vị thái tử mà thôi.

Tạ Trì không hiểu thấu tâm tư khổ sở của mẫu phi, nhưng cũng chẳng dám phản kháng, chưa từng phủ nhận chuyện này.

Vì vậy, ta luôn ghi nhớ hắn là ân nhân cứu mạng mình.

Mặc dù đôi khi cảm thấy có chút kỳ lạ—hắn dường như không giống thiếu niên đã cứu ta khi ấy.

Ta tự cầm bức họa, lén lút điều tra thêm một lần nữa.

Từng người trong kinh thành có vài phần giống Tạ Trì, dù là tông thân hay bách tính, ta đều tìm hiểu kỹ, xác nhận họ không thể là người đó.

Mãi cho đến khi Tạ Tô Duẫn xuất hiện.

Lần đầu gặp hắn, vừa nhìn thấy gương mặt ấy, trong khoảnh khắc ta đã quyết định giữ hắn lại bên mình.

Khi ấy, trong cung có một vị phi sợ rằng ta vì hắn có nét giống Tạ Trì mà giữ hắn làm cái bóng, để xoa dịu nỗi cô đơn nơi tịch mịch của tẩm cung.

Nàng ta hốt hoảng khuyên can, nhưng ta chỉ đáp:

“Không phải, ta chỉ thấy tò mò.”

Tất cả những kẻ có dung mạo giống Tạ Trì ở kinh thành, ta đều đã tra xét.

Dù là thân vương tông thất hay dân thường, ta đều nắm rõ.

Ta chắc chắn hắn là kẻ từ đâu bỗng dưng xuất hiện.

Ta hiếu kỳ về thân phận của hắn, cũng hiếu kỳ thiếu niên năm đó cứu ta, rốt cuộc có phải Tạ Trì hay không.

Dẫu sao, cái vẻ “mặt dày” của Tạ Tô Duẫn, thực sự mang đến cảm giác quen thuộc.

Khi nam tuần thị sát, Tạ Trì đưa Lệ Yên Nhiên ra ngoài du ngoạn, bỏ mặc ta lại hành cung một mình.

Việc này vô tình tạo cơ hội cho Tạ Tô Duẫn tìm cách tiếp cận ta.

Tên nam nhân xấu xa ấy cố tình nửa che nửa hở, y phục ướt đẫm, cố ý dụ dỗ ta trong suối nước nóng.

Hắn nắm lấy tay ta, dẫn dắt ta lướt qua chân mày, dọc theo gò má, rồi từ từ trượt xuống dưới làn nước.

Tại nơi dễ khiến người ta mơ màng, ngón tay ta chạm phải vết sẹo gồ ghề.

Sau này, vị cao tăng trong chùa cũng nói với ta rằng, vết thương trên người hắn là do bị vật sắc nhọn đâm xuyên.

Ấy là khi hắn liều mạng cứu ta từ dòng nước xiết, ôm chặt ta vào lòng, đón nhận mũi đá nhọn đâm vào mình.

Đó là vết thương nặng nhất mà hắn từng chịu.

Thế nhưng, tất cả dược thảo kiếm được, hắn đều ưu tiên dùng để băng bó những vết thương ngoài da cho ta, còn bản thân không hề được chữa trị kịp thời, để lại sẹo lớn.

Trong lòng ta sớm đã có phỏng đoán.

Cuối cùng, ta chạy đến chỗ Tạ Trì, thử thăm dò vài câu.

Không giống như mẫu phi của hắn tâm tư sâu xa, Tạ Trì không giỏi che giấu.

Lời nói chưa dứt, hắn đã để lộ dối trá.

Tạ Tô Duẫn, quả thực là một tên nam nhân xảo quyệt.

Rõ ràng có thể nói thẳng ra, nhưng lại thích âm thầm gợi ý, khiến ta phải tự mình suy đoán.

Giống như khi ta bịt mắt, mò mẫm chạm vào gương mặt hắn—

Hóa ra khi ấy hắn vốn chưa ngủ, chỉ giả vờ mà thôi.

Nhiều năm sau, hắn vẫn nắm tay ta, áp lên má mình, khóa chặt ánh mắt ta trong đôi mắt hắn, lặng lẽ nhìn ta.

Từng chút một, hắn vừa nhắc nhở, vừa mê hoặc ta.

Cha ta tỉnh dậy, ta đang ngồi bên cạnh, thuận tay đưa cho ông bát canh giải rượu từ phòng bếp.

Ông nhận lấy, vui vẻ cảm thán:

“Nữ nhi của ta thật hiếu thảo.”

Rồi lại nói:

“Chuyện này là việc của hạ nhân, đâu cần con đích thân làm.”

Tuy nói vậy, nhưng ông vẫn uống cạn trong nháy mắt.

Đợi ông uống xong, ta mỉm cười:

“Cha, người ta thường nói, lão gia trong thiên hạ đều có mỹ thiếp đầy phòng. Hay là nữ nhi tìm vài mỹ nhân về, tặng cha thêm một hai tân nhân?”

Cha ta suýt sặc, may mà canh đã uống hết, không bị nghẹn.

Ông liếc trái liếc phải, xác nhận mẫu thân không có mặt, rồi vội kêu lên:

“Con ngoan, đừng ly gián cha và mẹ con.”

Ông đặt bát xuống, ánh mắt ta vừa lóe lên, ông lập tức hiểu được ta đang ám chỉ điều gì.

Cha ta thoáng vẻ ngại ngùng, lẩm bẩm:

“À… hôm qua cha quên nói, công tử Tạ hiện đang tạm trú tại phủ. Là cha sơ suất.”

Ông giải thích rằng đây là do Tạ Tô Duẫn chủ động đề nghị, ông ngại từ chối.

Ta nhìn người cha cáo già trước mắt, đoán rằng Tạ Tô Duẫn hẳn đã đưa không ít lợi ích, nên bây giờ cha ta mới ra mặt giúp hắn nói đỡ.

“Giang gia ta nào có giống những gia tộc cứng nhắc bên ngoài. Nhiều thêm một nam sủng thì có gì to tát đâu. Như biểu cô nương của con, sau khi hòa ly, cả đời không tái giá, trong viện vẫn có vài người đấy thôi.”

… Ta thực không muốn nhắc đến biểu cô nương của mình.

Thuở nhỏ, lũ nam sủng trong viện của bà chính là ám ảnh thời thơ ấu của ta.

Mùi son phấn nồng nặc đến mức làm ta buồn nôn.

Sau khi hỏi dò phụ thân, ta xác nhận rằng ông không có ý gì khác.

Chỉ là đơn thuần bị lợi lộc làm xiêu lòng, không kiên trì được, lỡ miệng đồng ý để Tạ Tô Duẫn ở lại viện của ta.

Nghĩ tới nghĩ lui, không biết nên lấy danh nghĩa gì, ông liền thuận miệng nói: “Công chúa ban cho tiểu thư trong phủ một vị nhạc sư, giữ lại làm nam sủng.”

Người Giang gia quả thật không câu nệ lễ giáo.

Triều đại bao lần đổi thay, Giang gia vẫn sừng sững, truyền thừa qua các triều.

Phong tục thuở trước đâu có khắc khe bảo thủ như bây giờ.

Gia tộc ta duy trì lối sống cởi mở.

Dù là hòa ly bỏ chồng, tái giá, nuôi nam sủng hay thủy chung một phu một thê, trong Giang gia đều chẳng có gì lạ.

Con gái Giang gia, nữ đức nữ hạnh treo trên miệng, nhưng chưa bao giờ khắc sâu trong lòng.

Vì vậy, phụ thân ta không xem đây là chuyện lớn.

Ông cho rằng, nếu ta thích Tạ Tô Duẫn, thì cứ thuận theo.

Nếu không ưa, đuổi hắn ra ngoài là được.

Thích sao? Ghét sao?

Ta không rõ.

Tạ Tô Duẫn len lỏi vào cuộc sống của ta với thân phận thấp hèn, diện mạo như thần tiên giáng thế, tỏ ra ngây thơ vô hại.

Chỉ cần đẩy nhẹ liền ngã, nắm tay liền đỏ mặt, không dám động đậy, hoàn toàn để mặc ta xử trí.

Hắn chu đáo, cẩn trọng, ngoan ngoãn, dịu dàng.

Ngay cả ánh mắt cũng tiết chế thu liễm, sâu thẳm nhưng không u ám.

Nhìn qua, chẳng hề có chút xâm lược nào.

Nhưng…

Lần đầu gặp, hắn chỉ cách ta một ánh nhìn xa xăm.

Sau đó là khoảng cách gần gũi, lướt qua nhau trong gang tấc.

Rồi hắn ở chung phủ, cùng một viện.

Bây giờ thì chiếm hẳn tẩm phòng của ta.

Từng chút, từng chút một, không để lại dấu vết, nhưng lại từng bước xâm chiếm.

Tâm tình ta vốn nhạt nhẽo thờ ơ, nhưng hắn lại luôn khơi gợi cảm xúc của ta.

Chỉ đôi ba câu, đã chọc thủng lớp phòng ngự hờ hững của ta.

Ta không rõ cảm xúc dành cho hắn là gì.

Nhưng trong lòng cứ dâng lên sự hoảng loạn, muốn tránh xa khi hắn từng bước tiếp cận.

Dù vậy, ta không để lộ ra ngoài.

Khi cầm theo gói bánh phù dung do đường muội tranh giành giúp ta, ta trở về viện.

Tạ Tô Duẫn vẫn đang đợi dưới gốc cây cổ thụ.

Vừa từ vòng tay ấm áp của gia đình bước về, nhìn hắn, ta chợt thoáng cảm thấy—

Hắn trông thật cô đơn.

Chỉ thoáng qua mà thôi.

Nhưng ta không thể làm ngơ.

Ta ngồi xuống phía đối diện bàn đá, đặt túi bánh đã bị va đập đến vỡ vụn trước mặt hắn:

“Bánh phù dung ở đây ta thích nhất, muốn thử không?”

Tạ Tô Duẫn luôn là như vậy, chỉ cần chút thiện ý liền cười vui rạng rỡ, hệt như nhận được món quà to lớn.

Hắn nhận lấy bánh, ánh mắt đầy ắp niềm vui:

“Những gì A Thiền thích, ắt hẳn là thượng phẩm.”

Hắn liếc qua túi giấy, ghi nhớ hoa văn và kiểu dáng.

Sau khi ăn xong, hắn mỉm cười cầu công trạng, nói rằng hắn đã tự tay dọn dẹp tẩm phòng của ta sạch sẽ, không còn một hạt bụi.

Hắn còn tự ý trải chăn đệm lên chiếc ghế dài bên cạnh giường.

Ta ngủ trên giường, hắn nằm trên ghế dài, khoảng cách vừa phải.

“Nam sủng” chỉ là cái danh.

Nếu ta không thích, hắn sẽ không vượt quá khuôn phép.

Hắn chỉ muốn lấy danh nghĩa ấy để ở lại bên cạnh ta.

Gần hơn một chút.

Lại gần thêm một chút nữa.

Ban đầu ta định đuổi hắn sang phòng khác, nhưng lại mơ màng ngủ quên, chẳng buồn mở miệng nữa.

Hắn luôn là vậy—khi ta nhượng bộ, hắn liền được đà lấn tới, quấn quýt không buông.

Khi ta tỏ ra lãnh đạm, hắn lại chủ động lùi một bước, xóa tan phòng bị, tiến thoái tự nhiên, giả vờ vô hại.

Nửa tỉnh nửa mê, ta nhắm mắt, khẽ nghiến răng, mắng nhẹ:

“Tên nam nhân xấu xa!”

Hắn vừa nãy, chắc chắn là cố tình giả vờ đáng thương.

Giữa bóng tối, ta nghe thấy tiếng cười trầm thấp của hắn.