10.
Trong đại điện, chiếc phượng ỷ thật lạnh lẽo.
Ta mệt mỏi chống đầu, hồi tưởng về những ngày xưa.
Năm mười sáu tuổi, ta từng nói, chỉ cần làm hoàng hậu là có thể bảo vệ gia đình bình an.
Nay ta hai mươi sáu tuổi, làm hoàng hậu suốt bảy năm, nhưng chẳng bảo vệ được ai.
Khoảnh khắc ấy, ta đột nhiên rất muốn ăn món canh sườn của mẫu thân, muốn thả cánh diều do phụ thân làm, muốn ngắm ca ca múa kiếm, muốn thêu giày hổ cho con của tỷ tỷ.
Ta nhớ họ, ta nhớ nhà.
Nỗi đau lớn nhất là khi trái tim đã chết.
Áo quần ngày càng rộng, người ngày càng tiều tụy, ta, cũng như phụ thân, chẳng qua nổi mùa đông năm ấy.
Ngày ta không qua khỏi, các phi tần trong cung đều tụ lại bên giường ta, cắn răng khóc.
Ta không biết trong những giọt nước mắt ấy có bao nhiêu là chân thật, nhưng một kẻ sắp chết như ta, còn bận tâm làm gì nữa?
Đường tuyết đêm lạnh lẽo, khi Lý Hành nhận tin vội vã chạy đến, ta đã qua đời từ lâu.
Tà áo chàng lấm bẩn, chắc hẳn trên đường đến đây, vì vội vàng, trơn trượt mà đã ngã rất nhiều lần.
Khi ta còn sống, ta không muốn gặp chàng.
Ngay cả khi chết đi, ta cũng chẳng muốn gặp lại chàng.
Đáng tiếc, chàng là hoàng đế, Xuân Hạnh không ngăn nổi.
Ta nhìn Lý Hành bên giường ta tuyệt vọng khóc lóc, hoảng hốt nắm lấy tay ta, nhưng chỉ cảm thấy nó đã lạnh như băng.
Ta không biết chàng đang khóc vì ai, vì “khanh khanh ngô thê”, hay vì ta?
Nhưng điều đó, đã chẳng còn quan trọng.
Lý Hành lớn hơn ta ba tuổi, nhưng chính trong ba năm hơn ta ấy, chàng đã gặp được “khanh khanh ngô thê” của mình.
Ta từ đó đã định sẵn không thể bước vào lòng chàng.
Chàng từng có được mặt trăng trên chín tầng trời, những đóa hoa của mười bốn châu.
Làm sao chàng để mắt đến ta – một ánh trăng trong nước, một đóa hoa trong gương.
Đã có người yêu chàng trăm năm, lại hẹn với chàng trăm năm tiếp theo.
Đông năm Huy Ninh thứ bảy, Hoàng hậu Hứa thị băng hà, Huy Ninh đế một đêm bạc đầu, bệnh nặng nhiều tháng.
Chàng đổi tên công chúa thành Tư Uyển, nghĩa là tưởng nhớ thê tử quá cố.
Quốc mẫu qua đời, cả nước để tang.
Hậu vị để trống, Lý Hành ra chỉ trong ba năm không lập tân hậu.
11.
Hồn phách ta lơ lửng giữa không trung, lạnh lùng nhìn mọi thứ.
Ta nghĩ, có lẽ chàng đang bi thương, cũng có thể đã tỉnh ngộ.
Nhưng bi thương thì có ích gì? Tỉnh ngộ thì có ích gì? Có ích gì chứ?
Sai lầm đã thành.
Yêu hay không yêu, yêu ai, thì có ích gì?
Tuyết có lẽ sẽ không ngừng rơi, mà ta, cũng nên rời đi rồi.
Chậm rãi, thật chậm rãi, ta không còn nhìn rõ những phi tần đang quỳ trước linh cữu của ta, cũng chẳng nhìn rõ kẻ bạc tình phụ lòng kia nữa.
Ta cảm thấy mình nhẹ bẫng, như đang bay lên, bay qua bức tường đỏ của hoàng cung, bay qua hoàng thành tựa như lao tù này, bay về nơi cha mẹ đang chờ ở chân trời.
Từ xa nhìn lại, ta dường như thấy gia đình mình, mỉm cười chờ đón ta trở về đoàn tụ.
Lần đầu tiên trong đời, ta cười an nhiên đến vậy.
Ta không còn là hoàng hậu của Lý Hành, cũng không cần làm “khanh khanh ngô thê” của ai nữa.
Nơi ta đi, trời cao đất rộng, gặp gió, gặp mưa, nhưng sẽ không bao giờ còn thấy núi xuân.
Phiên ngoại của Lý Hành
01.
Ta là đứa con duy nhất của phụ hoàng và mẫu hậu, từ khi sinh ra đã nhận được kỳ vọng rất lớn.
Từ khi có ký ức, cuộc đời ta chỉ toàn sách vở không bao giờ đọc hết, những điều không bao giờ học đủ.
Mọi người đều dạy ta cách trở thành một đích tử tốt, trở thành một vương gia tốt, nhưng chẳng ai quan tâm ta có hạnh phúc hay không.
Chỉ có nàng, là ánh sáng duy nhất trong thế giới ngột ngạt của ta.
02.
Năm ta mười lăm tuổi, Triệu tướng quân khải hoàn hồi kinh, mang theo tiểu nữ vào cung dự yến.
Đó là lần đầu tiên ta gặp nàng.
Nàng tên là Triệu Uyển Thư.
Nhưng nàng chẳng giống cái tên của mình chút nào.
Nàng không mặc váy lụa, mà lại khoác trên mình bộ y phục đỏ rực, mạnh mẽ và kiêu sa.
Ta liếc nhìn nàng vài lần, nàng liền mỉm cười với ta, tựa như ngọn gió xuân thoảng qua.
Buổi yến tiệc này vốn là dành cho Triệu tướng quân, chẳng liên quan gì đến đám hậu bối như chúng ta, thật vô vị.
Nàng bất chợt ghé đến gần, hỏi ta có muốn lẻn ra ngoài hóng gió không.
Ta ngạc nhiên vì sự táo bạo của nàng, nhưng như có ma xui quỷ khiến, ta gật đầu đồng ý.
Đêm ấy trăng sáng vô cùng.
Ta cùng nàng ngồi bên nhau trên mái nhà.
Nàng hỏi ta, làm vương gia có vui không.
Ta suy nghĩ một hồi, rồi lắc đầu.
Nàng liền từ trong lòng lấy ra một bình ngọc trắng đưa cho ta.
Ta hỏi nàng bên trong đựng gì.
Nàng cười rạng rỡ, đáp rằng:
“Ở đây chứa cát của sa mạc, và cả ngọn gió của sa mạc.”
Nàng đã theo phụ thân đi qua rất nhiều nơi, trong đó có cả đại mạc phương Bắc.
Ta bèn bảo nàng kể cho ta nghe chuyện về đại mạc.
Nàng bĩu môi, nói rằng đại mạc chỉ là một vùng cát vàng mênh mông vô tận.
Nhưng nếu vượt qua được đại mạc ấy, sẽ thấy một ngọn núi.
Gọi là Xuân Sơn.
Ngọn núi đó rất kỳ lạ, bốn mùa trong năm, trăm hoa không tàn, cây cối mãi xanh, khắp nơi đều là sắc xuân, nên gọi là Xuân Sơn.
Ta không tưởng tượng được ngọn núi ấy sẽ trông như thế nào.
Ta lớn lên trong hoàng thành, nơi đây đâu đâu cũng dát vàng nạm ngọc, nhưng chạm vào nơi nào cũng đều lạnh lẽo.
Ta đành nói ngọn núi ấy nhất định rất đẹp.
Nàng lộ vẻ khao khát, nói rằng sau khi chết, nàng muốn được chôn trên Xuân Sơn.
Ta vội bảo nàng nói xui, nàng chỉ khẽ cúi mắt, ôm lấy ngực mình, nói với ta rằng.
Nàng mắc bệnh tim, không biết sẽ rời đi vào ngày nào.
Nhìn đôi mày nàng hơi chau lại, trong lòng ta dấy lên một cảm xúc kỳ lạ.
Nhiều năm sau, ta mới hiểu, cảm xúc ấy gọi là đau lòng.
Ta há miệng, không biết nên nói gì.
Nàng khẽ cười, vỗ vai ta, rồi chuyển chủ đề.
Nàng bảo, nàng rất lạ lẫm với hoàng thành này, còn ta là người bạn đầu tiên của nàng trong thành.
Từ đó trở đi, trong lòng ta đã khắc sâu bóng hình của nàng.
03.
Lần thứ hai gặp nàng là khi nàng vào cung thỉnh an thái hậu.
Thái hậu rất thích hoa đào, nên gần Trọng Hoa Cung trồng đầy cây đào.
Chính vào lúc ấy, ta gặp lại nàng.
Cánh đào rơi rụng đầy trời, nàng khoác trên mình bộ y phục đỏ, đứng dưới gốc đào.
Thấy ta đi đến, nàng vẫy tay, đôi mắt cười cong cong.
Hôm đó, chúng ta bắt dế cả buổi chiều trong ngự hoa viên.
Trời nhá nhem tối, nàng dẫn ta lén trèo tường ra ngoài cung, đi tiệm bánh dân gian nếm thử hương vị nhân gian.
Đó là khoảng thời gian vui vẻ nhất trong đời ta.
04.
Đến Trung Nguyên năm sau, nàng hẹn ta đi thả đèn sen.
Ta chờ bên bờ sông rất lâu, nhưng không thấy bóng nàng đâu.
Chỉ có gia nô nhà họ Triệu vội vàng chạy đến, mang theo một cây trâm gỗ đào và tin nàng đã qua đời.
Bệnh tim tái phát, ra đi đột ngột.
Trước khi mất, nàng vẫn nhớ lời hứa, muốn đưa cây trâm này cho ta.
Nàng nói đã hứa tặng ta một món quà thì sẽ không nuốt lời.
Ta đứng ngẩn người tại chỗ.
Triệu Uyển Thư, nhưng nàng đã hứa với ta, sẽ cùng ta thả đèn sen cơ mà.
Ta nhớ lại một lần hai chúng ta lén uống rượu say, ngước nhìn ánh trăng trên trời, nàng hát cho ta nghe một bài dân ca vùng biên.
Hát được một nửa, nàng hỏi ta có thích cô nương nào không.
Ta còn chưa kịp trả lời, bỗng cảm thấy vai mình nặng trĩu.
Quay đầu lại, chính là gương mặt nàng gần ngay trước mắt.
Nàng say rồi, tựa vào vai ta mà ngủ.
Ta khựng lại, nghĩ rằng nàng chính là cô nương trong lòng ta.
Nhưng giờ đây, nàng đã mang trái tim ta cùng đi theo nàng mất rồi.