07.
Cuối năm Huy Ninh thứ sáu, công tử nhà họ Thẩm bị điều đi làm Thứ sử tại Kinh Châu.
Tỷ tỷ dẫn theo một đôi nhi nữ vào cung để từ biệt ta, dù trong lòng trăm ngàn luyến tiếc, nhưng chỉ có thể hóa thành một câu: “Đi đường bình an.”
Đông năm Huy Ninh thứ bảy, Lý Hành cần cù vì dân, thường xuyên xem tấu chương đến nửa đêm.
Trời trở lạnh, chàng nhiễm phong hàn, ngã bệnh. Nghe tin, ta tự tay nấu chè hạt sen mang đến cho chàng.
Vào cung đã bảy năm, ta chưa từng tới Tẩm Điện của chàng.
Nơi này khắp nơi đều là tấu chương, hậu phi không nên can dự triều chính, ngày trước để tránh hiềm nghi, lại thêm việc chàng thường đến thăm ta, ta thật sự chưa từng đặt chân tới đây.
Khi ta đến, Lý Hành không có trong điện, Kỷ công công nói chàng đang ở Thái Cực Cung bàn chuyện với các đại thần vì có quốc sự gấp.
Lý Hành sai người truyền lời bảo ta, trời đông giá rét, hãy trở về trước, đợi chàng xử lý xong việc sẽ đến thăm ta.
Dẫu sao ta cũng nhàn rỗi, liền ở lại Tẩm Điện chờ chàng.
Nhàn rỗi không có việc gì, ta liền đi quanh điện ngắm nghía.
Tẩm điện của chàng không xa hoa, trên kệ sách xếp đầy đủ các loại sách.
Ta chậm rãi bước đến bên giường, thấy trên đầu giường treo một bức họa nữ tử, dáng vẻ giống ta đến chín phần.
Xuân Hạnh che miệng cười: “Hoàng hậu nương nương, hoàng thượng thật lòng yêu thương người, còn lén vẽ bức họa của người giấu ở đây.”
Người trong bức họa mặc một bộ y phục đỏ đứng dưới cây đào, nụ cười rực rỡ như hoa, vẻ đẹp phóng khoáng, kiêu sa, trong trời đất đầy sắc hồng, đôi mày ánh mắt của nàng còn sắc sảo hơn cả hoa đào.
Ta không kìm được mà nhíu mày.
Chân mày của ta không sắc bén như vậy. Ta cũng chưa từng mặc y phục đỏ.
Ta nhẹ nhàng chạm lên bức họa, đầu ngón tay lướt qua đôi mày ánh mắt của người trong tranh, bất chợt chạm phải một chỗ nhô lên.
Ánh mắt ta tối lại, từ từ ấn xuống, kệ sách liền mở ra một hộp bí mật.
Trong hộp là một chồng thư dày, câu mở đầu mỗi bức đều là: “Khanh khanh ngô thê.”
Toàn thân ta như lạnh ngắt, máu trong người như ngừng chảy.
Các đốt ngón tay siết chặt lấy lá thư đến trắng bệch, dường như không còn sức để cầm vững mảnh giấy.
Ta đọc từng chữ, từng chữ một.
“Khanh khanh ngô thê, người có tình khó thoát cảnh âm dương cách biệt, ta vô cùng nhớ mong, thường thắp hương cầu nguyện, trăm năm sau tái ngộ, mong khanh được an yên.”
“Khanh khanh ngô thê, đêm khuya khó ngủ, nỗi nhớ khôn nguôi, di vật của khanh chẳng có mấy, may thay còn cây trâm gỗ đào lưu lại nhân gian, nhìn vật nhớ người, giải nỗi tương tư.”
“Khanh khanh ngô thê, đêm giao thừa an ổn, ta gặp một nữ tử, kiều diễm rực rỡ, hệt như khanh năm xưa. Ta nghĩ có lẽ là khanh không đành lòng, quay lại ở bên ta.”
“Khanh khanh ngô thê, ta cùng nàng ấy sinh được một nữ nhi, lấy chữ ‘Thư’ của khanh, đặt tên là Thư Hoa.”
Ta đứng không vững, may nhờ Xuân Hạnh đỡ lấy.
Ta lần theo ngày tháng trên phong thư, tìm được bức gần nhất, được viết vào ngày hôm qua.
“Khanh khanh ngô thê, trong mộng lại gặp, khanh vẫn rực rỡ như xưa. Ta mãi khắc ghi, dù có tân nhân, cũng chẳng bằng khanh khanh nửa phần.”
“Chẳng bằng khanh khanh nửa phần...” Ta lẩm bẩm.
Sáu chữ này nặng tựa ngàn cân, đè ép đến mức ta không thở nổi.
Hóa ra, chàng vẫn luôn yêu vị “khanh khanh ngô thê” ấy, còn ta, chỉ là một kẻ đáng thương dốc hết chân tình vào sai người.
Ta bị thứ tình cảm vốn không thuộc về mình lừa dối suốt bao năm trời.
Nhìn hàng trăm bức thư trước mặt, dường như ta có thể hình dung được bàn tay Lý Hành run rẩy khi viết những dòng thư ấy, có lẽ vì nỗi nhớ hoặc vì nỗi đau.
Giờ đây, từng chữ trong thư như một lưỡi dao nhọn, đâm thẳng vào trái tim ta, khiến nó rướm máu.
Lòng ta đau đớn như muốn vỡ vụn.
Nhưng ta không khóc được, cũng chẳng thể nở một nụ cười.
Chỉ cảm thấy mình thật đáng thương.
Năm đầu tiên gả cho Lý Hành, ta cùng chàng tham gia buổi săn bắn của hoàng gia.
Chàng giành được giải quán quân nhưng lại bị thương ở vai.
Ta đau lòng trách chàng rằng đã săn được cả một giỏ đầy thú, cớ sao còn phải đuổi theo con nai đốm ấy, để ngựa hoảng hốt mà ngã, khiến vai bị thương.
Khi ấy, Lý Hành vẫn còn nét trẻ trung của một thiếu niên.
Đôi mắt chàng sáng rực, nâng chiếc mũ làm từ lông cáo trắng, trân trọng đưa cho ta.
Chàng nói, ta từng bảo thích lông cáo trắng, lần này giải thưởng của buổi săn bắn chính là lông cáo hảo hạng từ phương Bắc gửi tới.
Lý Hành cười trong sáng vô ngần, chàng nói: “Đã là thứ nàng thích, vậy ta nhất định phải mang về tặng nàng.”
Chỉ là một câu ta buột miệng nói, chàng lại ghi tạc trong lòng.
Ta không thể kìm chế nổi, chẳng màng đến hình tượng mà ôm lấy chàng, nước mắt nước mũi đều làm bẩn cả vạt áo của chàng.
Khi ấy, ta cảm động đến mức rối bời.
Giờ đây nghĩ lại, những yêu thương ấy, có lẽ chưa bao giờ thuộc về ta.
Ta chỉ là người mang khuôn mặt giống người khác, thay người đó nhận ân sủng của đế vương.
Cả đời yêu, hận, si mê của ta, đến cuối cùng, hóa ra chỉ là một giấc mộng hư vô.
08.
Ta không biết mình đã quay về Phụng Ngô Cung bằng cách nào, suốt đường đi đầu óc ta mơ hồ, thậm chí còn đi nhầm đường mấy lần.
Ta chỉ nhớ mình đã xếp những bức thư ngay ngắn trên án thư của Lý Hành.
Ngoài trời, tuyết bắt đầu rơi, những bông tuyết nhỏ bay bay, giống hệt đêm giao thừa năm ấy.
Có lẽ, ngay từ lần gặp đầu tiên đó, đã là điềm báo của một sai lầm.
Đã sai, thì không nên tiếp tục sai mãi.
Khi bước ra khỏi Tẩm Điện, ta không hề ngoảnh đầu nhìn lại một lần.
Lý Hành ngày nào cũng đến, nhưng ta đều cáo bệnh, đóng cửa không gặp.
Đêm tuyết rơi rất lớn, chàng đứng dưới cơn mưa tuyết cả một đêm.
Cung nhân bên cạnh van xin hết lời, ta vẫn cứng rắn, không mở cửa cho chàng.
Bên ngoài gió tuyết gào thét, ta nằm trên giường, thế nào cũng không ngủ được, bèn dậy, ghé mắt qua khe cửa để nhìn trộm.
Thân thể Lý Hành mảnh khảnh, nhưng giữa cơn gió tuyết cuồng nộ, chàng đứng sừng sững trong sân, không lùi một bước.
Nếu không phải trên tóc chàng cài chiếc trâm gỗ đào ấy, có lẽ ta đã mềm lòng.
Khi dọn đồ cho Lý Hành, ta từng nhìn thấy chiếc trâm này, nằm cùng với những món đồ sang quý như mũ vàng, mũ ngọc, trông thật lạc lõng.
Chàng nói, đây là món quà của một người rất quan trọng đối với chàng.
Từ đó, ta không bao giờ động vào nó nữa.
Nếu không phải hôm nay đọc những bức thư ấy, ta vẫn chưa biết, chiếc trâm ấy là quà của người chàng yêu.
Ta ôm lấy lồng ngực, ngã ra giường, ban đầu cười như điên dại.
Cười mãi, cười mãi, nước mắt đã sớm chảy ướt cả khuôn mặt.
Ngoài kia trời lạnh, vết thương cũ ở vai chàng chắc chắn đang đau nhức.
Trong phòng ấm áp, nhưng vết thương trong tim ta đau đớn đến không chịu nổi.
Tỷ tỷ từng khuyên ta rằng, yêu sẽ khiến con người mờ mắt.
Nhưng khi ấy, ta đã chìm sâu trong sương mù, chẳng thấy rõ được gì.
Thực ra, ta lẽ ra nên nhận ra từ sớm.
Những năm qua, mỗi dịp Trung Nguyên, Lý Hành dù là bậc đế vương, vẫn tự tay thả đèn sen.
Chàng nói, đó là cầu mong một đời trọn vẹn không rời xa.
Ta thật ngốc, đèn sen đêm Trung Nguyên thường để tưởng niệm người đã khuất.
Ta nghĩ chàng cầu mong không chia lìa, nhưng nhất định không phải là với ta.
Sau đó, ta đổ bệnh. Thái y chẩn đoán là tâm bệnh tích tụ, mà tâm bệnh thì vô phương chữa trị.
Ta bất lực cười, không biết là đang cười Lý Hành, hay cười chính mình.
Thân thể ta ngày một sa sút, giống như đóa hồng sau mưa, dần dần tàn úa.
Các phi tần từng nhận ân huệ của ta thay phiên nhau đến thăm.
Những năm qua, ta đối xử rất tốt với họ, ngay cả những phi tần thất sủng nhất cũng có thể sống thoải mái trong cung.
Vì vậy, dù cả cung đình đều biết đế hậu bất hòa, ta cũng chưa từng nghe từ miệng họ lời nào cay nghiệt, điều đó khiến ta cảm thấy an ủi phần nào.
Nhưng về sau, những phi tần đến thăm nói chuyện ngày càng lạ, đều khuyên ta hàn gắn với Lý Hành.
Nghĩ đến đây, chắc hẳn là do Lý Hành sai họ đến.
Ta bật cười thành tiếng.
Nếu đã biết có ngày hôm nay, cớ sao lại làm vậy từ đầu?
Trong thoáng chốc, ta rất muốn hỏi chàng:
“Nếu đã quyết định lừa ta, vì sao không che giấu mọi thứ thật kỹ?”
Thật trớ trêu.
09.
Điều cuối cùng khiến ta gục ngã là tin tức do tỷ tỷ gửi về.
Ta từng kể với tỷ tỷ về lời dặn của phụ thân trước lúc lâm chung.
Những năm qua, tỷ tỷ luôn âm thầm điều tra, cuối cùng cũng tìm ra manh mối.
Năm đó, tên binh sĩ kia là phó tướng dưới trướng của Tổng lãnh binh Lâm, và Tổng lãnh binh chính là thân thích xa của gia tộc mẫu thân Lý Hành.
Nhà mẹ đẻ của ta quyền thế lớn mạnh, Lý Hành từ lâu đã nghi kỵ.
Khi ta hạ sinh Mân nhi, chàng lại càng cảm thấy nguy cơ cận kề.
Đáng thương thay, chàng vẫn diễn trò trước mặt ta, đóng trọn một màn kịch.
Dân gian thường nói: “Thà gả cho kỹ nữ hoàn lương, còn hơn vào nhà đế vương.”
Đã từng, ta chìm đắm trong giấc mộng mà Lý Hành dệt nên, chẳng thể nhìn rõ sự thật.
Giờ đây, chỉ có thể than một câu: Đế vương vô tình.
Ta chỉ cảm thấy đầu óc ong ong, chút yêu thương cuối cùng dành cho Lý Hành cũng tan biến sạch sẽ.
Người hại chết phụ thân và ca ca ta, lại chính là người ta yêu nhất, kề gối bên ta.
Mà người ấy, trong lòng vẫn luôn nhớ về một người đã khuất.
Ta nghĩ, vị “khanh khanh ngô thê” ấy thật may mắn, ra đi khi chàng còn trong trẻo, để trong ký ức của chàng, nàng mãi mãi rực rỡ xinh đẹp, áo đỏ kiêu sa.
Còn ta, chỉ là vật hi sinh cho quyền lực của chàng, là viên đá lót đường cho cảm tình của chàng.
Ta hận sự ngu ngốc của chính mình, thật đáng thương thay!
Ta muốn khóc lớn một trận, nhưng dù mở mắt, nước mắt cũng chẳng còn để rơi.
Những năm qua, nước mắt của ta đã sớm chảy cạn.
Vì thế, ta chỉ biết cười, cười đến thê lương, cười đến tuyệt vọng.