Vị hôn phu xuất chinh nơi biên ải suốt ba năm trời, gió sương dãi dầu, không một lần hồi âm.
Trong quãng thời gian đằng đẵng ấy, ta đã viết vô số bức thư gửi về, từ những chuyện nhỏ nhặt trong nhà, việc mùa màng trồng trọt, đến những lời thâm tình như nước, nhung nhớ như mây.
Ta chỉ mong rằng, khi đọc đến, lòng hắn có thể cảm nhận chút ấm áp từ chốn quê nhà, nơi luôn chờ đợi hắn trở về.
Ngày hắn khải hoàn, ta ra cửa ngóng đợi, lòng tràn đầy vui sướng và hy vọng. Nhưng khi hắn xuất hiện trước mặt ta, bên cạnh hắn lại là một nữ tử.
Ta chết trân, lòng đau tựa dao cắt, đôi môi run rẩy bật ra lời hỏi:
“Chẳng phải ngươi đã từng nói rằng, ngày trở về sẽ cùng ta kết thành phu thê sao?”
Hắn nghe vậy, không những chẳng hề giải thích, mà còn lạnh mặt, bảo ta:
“Đừng làm phiền ta nữa.”
Những lời ấy, tựa như băng lạnh xuyên thấu tim ta.
Đang lúc ta bàng hoàng không biết phải làm thế nào, bỗng từ phía sau, một cánh tay cường tráng vươn tới, ôm ta kéo lên ngựa.
Trong giọng nói trầm ấm, mang theo sự bá đạo không thể chối cãi, người ấy cười lạnh mà rằng:
“Trừ ta ra, nàng còn muốn thành thân với ai khác nữa?”
1
Năm ấy, ta vừa tròn mười ba tuổi.
Phụ thân bất ngờ lâm bệnh nặng, sức khỏe suy kiệt, chẳng thể qua khỏi. Trước lúc lâm chung, người nắm tay ta mà nghẹn ngào dặn dò:
“Con hãy đến Ung Châu tìm cố nhân họ Ninh của ta. Khi con còn chưa ra đời, ta đã cùng vị cố nhân ấy định sẵn hôn sự giữa con và tam lang nhà họ. Chốn đó là nơi con có thể nương thân.”
Mang theo di vật của phụ thân và nỗi lòng vừa thương tiếc vừa lo sợ, ta lên đường đến Ung Châu.
Khi đến nơi, ta mới hay rằng vị hôn phu của ta đã tòng quân, rời khỏi gia đình từ lâu. Trong nhà, chỉ còn đại lang – huynh trưởng của hắn – cùng thê tử của mình chăm sóc mẫu thân.
Đại bá mẫu họ Ninh vốn thân thể yếu nhược, chỉ đôi ba câu nói cũng khiến hơi thở đứt đoạn, nhưng đối với ta lại vô cùng từ ái.
Người nắm tay ta, giọng nói nhu hòa mà rằng:
“Con ngoan, con tên là Chiếu Doanh phải không? Tên này là do ta cùng mẫu thân con đắn đo đặt ra. Con là con dâu chưa qua cửa của tam lang, thì cũng là con ta. Cứ yên tâm ở lại đây, đừng lo nghĩ điều gì.”
Lời nói ấy tựa như ánh nắng giữa trời đông, xua tan sự bơ vơ lạc lõng trong lòng ta.
Nhà họ Ninh tuy chẳng phải phú hộ, nhưng cũng là gia đình đàng hoàng, lấy việc kinh doanh hai cửa hàng gạo làm sinh kế. Sau khi Ninh thế bá qua đời, mọi việc trong nhà đều giao cả cho đại lang gánh vác.
Đại lang là người điềm đạm, rộng lượng, nghe tin ta đến, không chỉ chuẩn bị rượu ngon món quý để khoản đãi, mà còn đưa con gái nhỏ Tiểu Mãn đến làm bạn, giúp ta bớt phần lạc lõng.
Tiểu Mãn vốn là cháu cưng của bá mẫu, từ nhỏ đã quấn quýt bên gối bà, lại là đứa trẻ hoạt bát, đáng yêu, nên chẳng bao lâu đã thân thiết với ta.
Duy chỉ có thê tử của đại lang là không mấy ưa ta, ánh mắt thường mang chút xa cách. Ta cũng hiểu ý, liền giữ khoảng cách, ít khi đến gần.
Ở nhà họ Ninh hơn nửa tháng, một hôm bá mẫu muốn làm áo đông gửi cho tam lang. Ta biết mắt bà kém, không thể làm lâu, liền chủ động nhận việc này.
Tuy nữ công của ta không được xem là xuất sắc, nhưng đôi tay còn trẻ, nhanh nhẹn, việc gì cũng làm xong rất chóng.
Khi ta dâng áo lên, bá mẫu vuốt ve từng đường kim mũi chỉ, nét mặt ánh lên niềm vui chân thật, đôi mắt cười híp lại, bảo:
“Áo đã làm xong, chi bằng con viết thêm một bức thư gửi cho tam lang. Đợi nó trở về, hai đứa thành thân. Viết thư sớm cũng là cách để hiểu nhau thêm.”
Nghe lời bá mẫu, ta cảm thấy rất hợp lý, liền cầm bút viết ngay.
2
Lá thư đầu tiên, ta viết rất lễ phép.
Trước tiên tự giới thiệu, nói rằng mình là thê tử đã định hôn ước từ khi chưa ra đời, vì cha qua đời nên ta tới Ung Châu nương nhờ, may mắn được bà Ninh mẫu chăm sóc, có nơi trú ngụ…
Viết một hồi dài dòng lời khen ngợi, cuối cùng không nhịn được, ta thêm vào một câu:
“Ung Châu đã gần vào thu, cây tùng rụng lá xanh, không biết phu quân ở phương Bắc có thấy cảnh vật nào khác biệt không?”
Mẹ ta mất sớm, ta không có nhiều ký ức về bà, chỉ nhớ cha có nói bà đến từ phương Bắc, một nơi khác biệt hẳn với Ung Châu và Dung Châu, tiếc rằng cả đời này ta có lẽ sẽ không thể đến đó. Nếu có thể nghe người khác nhắc đến, cũng là một điều tốt.
Gói thư lại, ta để chung với áo ấm, mang đến trạm chuyển thư.
Trạm thư đông đúc, đầy những người nhà đến gửi áo ấm cho quân đội phương Bắc, ta nhận thư đưa từ người tiếp thư, khó khăn lắm mới tìm được chỗ trống, viết tên doanh trại của Ninh Tam Lang. Nhưng khi viết tiếp, ta lại gặp phải khó khăn.
Trước khi ra ngoài, ta chỉ hỏi về doanh trại của Ninh Tam Lang, quên không hỏi tên của hắn, chẳng nhẽ lại chỉ viết “Ninh Tam Lang”?
May mắn thay, lúc ấy Tiểu Mãn đang ở cạnh, vừa hay đòi ta đưa đi mua kẹo hồ lô, ta liền nhân cơ hội hỏi. Tiểu cô nương nghe hỏi liền đáp ngay, giọng non nớt vang lên:
“Tam thúc của con tên là Ninh Vân Chi!”
Nghe vậy, ta mỉm cười, vuốt đầu con bé khen vài câu, rồi tiếp tục hỏi:
“Thế chữ ‘Vân Chi’ ấy viết thế nào, con có biết không?”
Ai ngờ Tiểu Mãn liền lắc đầu, gương mặt ngây thơ nhưng chắc nịch:
“Tiểu nữ không biết đâu!”
Lo sợ ghi sai tên, ta đành đem tấm thẻ dịch trả lại, chuẩn bị về nhà hỏi bá mẫu cho rõ ràng.
Nhưng khi nghe ta kể, dịch sứ đứng bên lại bật cười, nói:
“Tam lang nhà họ Ninh, đóng ở Hổ Uy doanh Bắc Địa, đúng không? Ta trùng hợp biết rõ, để ta viết giúp cô nương.”
Dịch sứ cầm bút, nhẹ nhàng viết xuống mấy chữ như đã quen thuộc từ lâu:
“Ninh Vân Chi.”
3
Thư hồi âm của Ninh Vân Chi đến rất nhanh, nhưng lại không hề khách sáo. Mở đầu đã là một câu hỏi như mũi tên thẳng thừng:
“Trong nhà từ bao giờ lại định cho ta một vị hôn thê vậy?”
Rồi tiếp theo lại trách:
“Ngươi tâng bốc quá lố rồi đấy.”
Thư còn có đôi dòng mô tả phong cảnh bắc địa, nhưng ngữ khí vẫn không đổi:
“Bắc địa với Ung Châu khác biệt như trời với đất. Đầu đông nơi đây chỉ có gió mạnh và tuyết dày. Đến tháng Chạp, mặt đất còn đóng băng dày cộm, chưa từng thấy phải không? Chỉ cần bước một bước, ngươi sẽ ngã lăn tận hai dặm!”
Ta cầm thư, đọc đi đọc lại, lòng ngổn ngang trăm mối.
Đây chính là “tam lang trầm mặc, ít lời” mà bá mẫu từng khen ngợi sao? Ở Dung Châu quê ta, người trầm mặc lẽ nào lại như thế này?
Bá mẫu tuy không biết chữ, nhưng điều đó chẳng cản bà giục ta viết thư hồi âm cho Ninh Vân Chi.
“Phu thê với nhau, quan trọng nhất là thấu hiểu lòng nhau.” – Bà nói, ánh mắt đầy ý vị sâu xa.
“Giờ đây tình cảm thêm khắng khít, sau này cuộc sống càng thuận hòa. Nghe lời bá mẫu, con hãy viết thư hồi đáp. Nếu được, kẹp thêm một nhành hoa hay chiếc lá gì đó vào thư, đảm bảo làm cho chàng trai đó mê mẩn đến nỗi quên cả đường về.”
Ta kinh ngạc, không khỏi thốt lên:
“Bá mẫu thật cao tay…”
Bá mẫu cười, vừa che miệng khẽ ho hai tiếng vừa đáp:
“Có gì đâu mà cao tay? Đều là chiêu cũ ta với mẫu thân con từng dùng. Giờ ta chỉ thay nàng dạy lại con mà thôi.”
Ta vâng lời, liền viết thư hồi âm cho Ninh Vân Chi.
Trong thư, ta kể lại chuyện nhà, rằng mọi sự đều tốt đẹp, trong sân nhà đầy cành quế trĩu vàng, mấy hôm trước chỉ vì ăn bánh hoa quế mà gương mặt tròn ra một chút.
Sau đó, ta tả Ung Châu khác biệt với Dung Châu thế nào, kể về trung thu vừa qua, bá mẫu dẫn ta lên thuyền ngắm chiếc đèn hoa lớn rực rỡ trên mặt nước. Đến đoạn này, cảm thấy ngôn từ không đủ diễn tả, ta liền cầm bút phác họa hình dáng chiếc đèn ấy ngay bên cạnh.
Cuối thư, ta vẫn không quên hỏi thăm thêm về phong thổ bắc địa, mong chàng kể thêm đôi điều.
Gấp thư lại, ta nhớ đến lời bá mẫu dặn dò, lưỡng lự hồi lâu rồi lấy một nắm hoa quế khô, kẹp vào phong thư, viết thêm một câu cuối:
“Quế vàng Ung Châu, mong giúp quân giải nỗi nhớ quê hương.”
Thư vừa gửi đi, tháng sau đã có hồi âm.
Lần này, Ninh Vân Chi dường như thái độ đã tốt hơn đôi chút, nhưng lời lẽ vẫn tự do, đầy vẻ thoải mái:
“Ung Châu ngon nhất đâu chỉ có bánh hoa quế. Ngươi đã ghé qua Đại Từ Quán ngoài thành chưa? Dưới chân núi có một lão ông bán tàu hũ, món đó đúng là tuyệt phẩm, vừa có vị mặn vừa có vị ngọt.”
“Ngươi thích ngắm đèn ư? Đợi đến Thượng Nguyên, hội hoa đăng còn đẹp hơn nhiều. Trên lầu Cẩm Tú còn có ngọn đèn vương, tuy không bán nhưng đoán đúng câu đố sẽ được tặng đèn thỏ, có cả màu trắng lẫn màu hồng.”
“Nếu ngươi không đoán trúng, đợi ngày ta về Ung Châu, ta sẽ giúp ngươi thắng một chiếc.”
“Bắc địa này, ngoài khí hậu chẳng giống Ung Châu, cảnh sắc cũng hoàn toàn khác biệt. Ngoài thành phần nhiều là thảo nguyên, dân chúng chủ yếu chăn nuôi bò dê, món thịt dê nơi đây chẳng hề hôi tanh. Chỉ cần nhúng qua nước sôi là có thể ăn ngay…”
Hắn viết một câu, đáp lại một câu, dòng nào cũng chân thực mà không thiếu phần tinh tế.
Khi đọc xong thư, ta mới nhận ra khóe môi mình đã cong lên từ lúc nào. Không cần bá mẫu nhắc nhở, ta liền cầm bút viết tiếp bức thư hồi âm:
“Nói cũng lạ, Đại Từ Quán ta vừa đi hôm qua, món tàu hũ ở đó quả thực mềm mịn, vị ngon khó tả…”