Ta mềm giọng:
“Lần sau Kính Tu ca đừng nóng nảy thế nữa, được không?”
Thẩm Kính Tu không trả lời, đưa tay ra.
“Sao? Muốn muội đập tay hứa hẹn à?”
“Đau tay, do đánh hắn mà đau.”
?
Có phải đang giả vờ không đây?
Đại ca à, mấy ngày trước đánh người ta, đến hôm nay đại ca mới nói đau tay sao?
Hơn nữa huynh còn là đại tướng quân của Bắc Lương đấy.
Ta “hừ hừ” hai tiếng:
“Không phải Kính Tu ca nói hắn là kẻ vô dụng sao? Đánh một kẻ vô dụng mà cũng đau à?”
Ánh mắt Thẩm Kính Tu thành khẩn:
“Đánh cặn bã thì đau.”
Lương Duẫn, đứa trẻ ngoan ấy, khiến lòng ta vui vẻ vô cùng. Đối với đàn hặc của ngôn quan, Bệ hạ chân thành đáp lại, giọng nói ôn hòa nhưng đầy uy quyền:
“Thẩm tướng quân một lòng vì nước, Thẩm gia bao đời canh giữ biên cương, không nghe lọt chuyện thông địch, nhất thời xúc động là có thể hiểu, về sau Trẫm sẽ răn dạy hắn.”
Ngôn quan bị chặn họng không nói nên lời.
Năm ngày sau, sáng sớm, Vệ Tích vừa lên triều đình đã nhận được lời an ủi từ Bệ hạ, buổi tối đã bị đạo tặc đánh đập trong phủ, một lần nữa ốm liệt giường.
Nhận được tin, ta nhìn Thẩm Kính Tu đầy hàm ý:
“Trẻ nhỏ dễ dạy.”
Thẩm Kính Tu lắc đầu:
“Không phải ta.”
Phong cách này quá quen thuộc.
Ta gật đầu.
Lương Duẫn, quả nhiên là đứa con ngoan mà ta đã hết lòng dìu dắt.
6
Chỉ là chuyện triều đình, đánh người thì không thể giải quyết được tất cả. Chẳng lẽ lại định kỳ đánh Vệ Tích một trận để hắn không thể ngóc đầu lên sao?
Lão già Vệ Thịnh, dù đã bị bãi miễn chức quan, nhưng vẫn ở lại trong kinh thành, dựa vào thế lực của thông gia là Nhan Thượng thư, ít nhiều vẫn còn chút thanh thế.
Lương Duẫn đưa mật báo cho ta:
“Nhan Thượng thư, so với Vệ Thịnh, còn khó đối phó hơn nhiều. Chính sự của ông ta xuất sắc, làm việc tận tụy, thường ngày cũng thanh liêm, lại có tài năng, chức vị Thượng thư cũng không phải hoàn toàn nhờ vào nhà họ Vệ.”
Ta và Lương Duẫn từng dựa vào nhau trong cung, ngài ấy trên triều, ta trong hậu cung, bảo vệ lẫn nhau, phối hợp rất ăn ý.
Lần này trở về kinh, Bệ hạ đã mấy lần triệu ta để bàn chuyện, đại cục đã định, ta không muốn can dự thêm nên dùng lý do “nữ nhi không xen vào chính sự” để thoái thác. Lập tức, Bệ hạ liền vi phục xuất cung, nói thẳng:
“Kiến thức của Nương nương còn hơn đám lão già trên triều nhiều. Đừng nói nữ nhi không can dự chính sự, ngày trước dù ở hậu cung, chẳng phải Nương nương cũng đã đảo lộn triều đình sao.”
Lương Duẫn vừa mới đăng cơ, người đáng tin không nhiều. Lại thêm việc Vệ Thịnh bị Thẩm Kính Tu vạch tội khiến ta giận dữ, ta mới góp chút ý kiến, giúp ngài ấy nghĩ cách. Ta lướt qua mật báo:
“Nếu Nhan Thượng thư thật sự thanh liêm, sao lại vội vã gả con gái cho Vệ Tích chỉ sau nửa năm ta bị đưa vào cung?
Ta nghe nói Bệ hạ vừa đề bạt một Hàn Lâm học sĩ? Có phải người tài không?”
Lương Duẫn lắc đầu:
“Tài thì có, nhưng chủ yếu là gia thế tốt, chỉ dùng để cân bằng thôi. Thúc phụ của hắn là Tòng Tham tri, tổ tiên cũng từng có chức tước.”
Ta cười:
“Ta nhớ Nhan Thượng thư còn có một tiểu thư phải không?”
Lương Duẫn cũng cười:
“Là con vợ kế, nhỏ hơn Nhan Cửu Nương, vợ của Vệ Tích, hai tuổi.”
“Vậy thì tốt, có thể để nàng ta và Hàn Lâm học sĩ kết giao.”
Chức vị Hàn Lâm học sĩ tuy không cao lắm, nhưng lại là người thường xuyên ở cạnh vua, không chỉ là biểu tượng cho tài năng xuất chúng mà còn là biểu hiện của sự sủng ái và trọng dụng của Hoàng đế.
Về công, đây là một vị trí đắc sủng; về tư, trong giới nữ nhi kinh thành, lấy được một người có tài danh và dung mạo là niềm tự hào.
Năm xưa ta cùng Vệ Tích xướng họa thơ ca, được xem là một đôi thần tiên quyến lữ, nổi tiếng khắp kinh thành.
Hiện nay, Nhan Cửu Nương cũng có tài hoa, muội muội cùng cha khác mẹ của nàng ta đương nhiên cũng không kém cạnh. Hàn Lâm học sĩ hẳn sẽ đủ sức hút đối với vị tiểu thư này.
Khi ta quay về Thẩm gia, hạ nhân trong phủ đều bận rộn đi đi lại lại trong sân.
Phủ Thẩm gia trước nay vốn giản dị, nhưng hiện tại trong vườn lại được treo rất nhiều đèn lồng.
Đặc biệt là trong viện của ta, ngay cả đến ngày Thượng Nguyên, ta cũng chưa từng thấy nhiều đèn lồng như vậy.
Tiểu nha đầu Thanh Triển, người cũ của phủ, luôn hầu hạ Thẩm bá mẫu, thông minh lanh lợi, được Thẩm bá mẫu cử đến chăm sóc ta. Lúc này nàng đáp:
“Là Tướng quân dặn dò, nói cô nương sợ bóng tối, bảo chúng ta treo thêm đèn.”
Ta hỏi:
“Tướng quân đâu? Đi quân doanh rồi sao?”
Thanh Triển lè lưỡi:
“Tướng quân trốn rồi ạ. Tướng quân lần này lập được đại công khi chinh chiến ở Hạ quốc. Trong kinh thành, ai ai cũng nói không lâu nữa Tướng quân sẽ được phong hầu, mà Tướng quân lại chưa có thê tử, mối mai đã đạp sập cả cửa phủ rồi.”
Quả thực, Thẩm Kính Tu lớn hơn ta vài tuổi, đã qua tuổi thành thân từ lâu, vậy mà bấy lâu nay vẫn chưa cưới vợ.
Nhưng mà…
Ta nghiêm túc phân tích:
“Tướng quân nhiều năm ở biên cương, ít có cơ hội về kinh thành, làm sao cưới vợ được?”
Thanh Triển lắc đầu:
“Không phải đâu, phu nhân đã chọn cho tướng quân không ít cô nương nhà lành, còn viết thư cho Tướng quân.
Nhưng Tướng quân chỉ đáp lại có mấy câu gì đó về sơn thủy, làm phu nhân tức giận.”
Sơn thủy gì chứ?
Ta thăm dò:
“Có phải là ‘Tằng kinh thương hải nan vi thủy, trừ khước Vu Sơn bất thị vân’ không?”
“Đúng rồi, chính là câu đó!”
Trong lòng ta khẽ động. Thẩm Kính Tu mấy ngày không ngủ, từ biên giới Hạ quốc vội vàng đến chỗ thổ phỉ cứu ta, rồi lại hợp tác với Hách Lan Hy, sau đó quay về đàn hặc Vệ Thịnh, đánh Vệ Tích.
Với những điều này, ta không thể không nghĩ, chẳng lẽ Thẩm Kính Tu có tình ý với ta, hay chỉ vì tình nghĩa cũ mà coi ta như muội muội, giống như Thẩm bá mẫu từng nói?
Hơn nữa, câu “Tằng kinh thương hải nan vi thủy”, thật sự là câu mà Thẩm Kính Tu có thể viết trong thư sao?
Trước đây, khi còn chơi cùng nhau, Vệ Tích rất có tài văn chương, thích đọc sách, ngâm thơ, sưu tầm nhạc phổ.
Còn Thẩm Kính Tu chẳng hề hứng thú với mấy thứ này, bao nhiêu thầy giáo đã bị huynh ấy chọc giận bỏ đi.
Ngoại trừ binh pháp, huynh ấy không thèm liếc mắt tới quyển sách nào khác.
Những buổi thi thơ ca, Thẩm Kính Tu thường trốn trong quân doanh, dù Thẩm bá mẫu có ép buộc huynh ấy đi gặp các quý nữ kinh thành, huynh ấy cũng chỉ khoanh tay đứng một bên, tỏ ra xa cách.
Trong số những thiếu gia tiểu thư cùng trang lứa ở kinh thành, không ai không sợ Thầm Kính Tu.
Ta quen thuộc với huynh ấy nên đôi khi chơi đùa, ta núp phía sau lưng, huynh ấy chỉ cần đứng thẳng người ôm kiếm đứng chắn trước mặt ta là có thể hù dọa người khác chạy mất. Ta liền cười khúc khích sau lưng huynh ấy.
Nhưng ngoài những lúc ấy, Thẩm Kính Tu rất ít khi nói chuyện với ta, huynh ấy thật khó đoán.
Hai mươi ngày sau, Lương Duẫn tổ chức tiệc ở Phong Hà Trì ngoài kinh thành, mời quan lại và gia quyến đến du ngoạn giải nhiệt.
Lương Duẫn chỉ ngồi lại một chút rồi rời đi. Con vua quý không ngồi dưới đường, thời điểm rối ren, ngài ấy không tiện ở ngoài quá lâu.
Huống hồ khi Bệ hạ rời đi, cũng thuận tiện cho ta thực hiện bước tiếp theo.
Hàn Lâm học sĩ và Nhan Thư Duệ quả nhiên vừa gặp đã yêu, qua lại đôi lần đã nảy sinh tình ý.
Nhan Thượng thư dĩ nhiên cũng cảm thấy rất đắc ý. Một cô con gái gả cho con trai của cựu quyền thần Vệ Thịnh, cô con gái còn lại thì có liên hệ với nhà Tòng thị, gia tộc đang lên. Hiện nay, ai trong triều đình mà không nể mặt hắn vài phần?
So với nhà họ Nhan, Vệ gia lại gặp không ít khó khăn. Vệ Thịnh bị cách chức, họ mất đi chỗ dựa, vốn định dựa vào Nhan Thượng thư, nhưng giờ lại thấy ông ta có ý muốn ngả về phía gia tộc Tòng thị, khiến nội bộ của Vệ giá rối ren, lòng người dao động.