Thái y kích động quá độ, vừa dứt lời liền vô lực ngã xuống giường, ho ra từng ngụm máu lớn.
Ta vội vàng nhặt lấy chiếc khăn trắng trên bàn, đưa đến bên miệng ông, nhưng ông lắc đầu.
Mãi sau, cơn ho của ông mới ngớt dần. Ông nhìn ta, giọng nói yếu ớt nhưng vẫn mang theo chút ôn hòa:
“Tiểu Chiêu Nhi là một đứa trẻ ngoan, có phải không?”
Ta gật đầu thật mạnh:
“Phải ạ! Bà nói Chiêu Nhi là đứa bé ngoan nhất, ai cũng sẽ thích Chiêu Nhi.”
Thái y mỉm cười hiền từ, bàn tay khô gầy chạm nhẹ lên khuôn mặt ta:
“Nếu như… để Chiêu Nhi mỗi ngày lấy chút máu cho Thái tử, con có bằng lòng không?”
Ta nghiêng đầu, nghi hoặc nhìn ông:
“Vì sao phải lấy máu cho Thái tử?”
“Như vậy… điện hạ sẽ tỉnh lại. Đến lúc đó, Chiêu Nhi cũng sẽ có những ngày tốt đẹp. Điện hạ là người tốt, chắc chắn sẽ đối xử thật tốt với con. Như thế, Chiêu Nhi cũng không cần phải bồi táng nữa. Đây chẳng phải là… chuyện vui vẻ cho tất cả sao?”
Nói rồi, ông đưa ta một con dao găm sắc bén, lưỡi mỏng như cánh ve.
“Dùng thứ này rạch một chút trên đầu ngón tay, nhỏ vài giọt vào thuốc của Thái tử, không lâu nữa, điện hạ sẽ tỉnh.”
Ta cầm dao trong tay, suy nghĩ một lát, rồi cười tươi với thái y:
“Nếu vậy, Chiêu Nhi cũng sẽ cho bác một ít, như thế bác cũng sẽ không chết nữa.”
Thái y lại nhẹ nhàng xoa má ta, đôi mắt đỏ hoe, liên tục lắc đầu.
“Bác không được rồi… Chiêu Nhi đừng lãng phí máu. Sau khi bác chết, bác sẽ phù hộ cho Chiêu Nhi và Thái tử…”
Ông vẫy tay, giọng ngày càng yếu ớt:
“Mau đi đi… đi đi… sau này… đừng quay lại nữa…”
Ta rạch đầu ngón tay, rất đau.
Vừa khóc, ta vừa nhỏ từng giọt máu vào chén thuốc.
Giọt máu hòa vào nước thuốc đen sánh, chẳng mấy chốc đã không còn dấu vết, chỉ còn lại chút mùi tanh nhẹ quanh chóp mũi.
Ta theo cách hôm trước, ép Thịnh Diễn uống hết một chén thuốc đầy.
Cứ như vậy liên tiếp hai ngày.
Rồi sáng hôm sau, ta thấy mí mắt hắn khẽ động.
Hắn thực sự… sắp tỉnh rồi!
Sáng sớm ngày thứ ba, ta mong hắn mau chóng tỉnh lại, liền cắt thêm một ngón tay nữa, đưa vào miệng hắn.
Đến tối, khi ta đang rúc vào lòng hắn, bàn tay hắn bỗng dưng động đậy.
Ta vội vàng vỗ nhẹ vào mặt hắn, khẽ gọi:
“Thái tử, Thái tử… Người tỉnh chưa? Thái tử… Thái tử…”
Mí mắt của Thịnh Diễn khẽ run lên, rất lâu sau, hắn thực sự chậm rãi mở mắt.
Hắn nhìn ta, vẻ mặt tràn đầy mơ hồ.
“Ngươi là… ai?”
Ta vui mừng ngồi bật dậy, giơ ngón tay bị thương ra cho hắn xem:
“Là Chiêu Nhi! Là Chiêu Nhi đã cho ngươi uống máu! Bác thái y nói chỉ cần ngươi uống máu thì sẽ tỉnh lại, và ngươi thực sự tỉnh rồi! Ngươi không nhớ Chiêu Nhi sao? Ngươi là người đã đưa Chiêu Nhi ra khỏi vòng tay bà, còn cho Chiêu Nhi một viên kẹo nữa!”
Thịnh Diễn yếu ớt nhắm mắt lại, khẽ “ừ” một tiếng, rồi lại chìm vào giấc ngủ.
Bà từng nói, người bệnh cần nghỉ ngơi, nên ta không dám quấy rầy hắn, chỉ ngoan ngoãn rúc lại vào lòng hắn.
Căn phòng rất tối, nhưng rất ấm áp, ấm hơn nhiều so với tiểu viện mà ta từng sống cùng bà.
Viện nhỏ của ta có một ô cửa sổ bị vỡ, ban đêm gió lùa vào lạnh buốt.
Nhưng nơi này thật tốt, chăn của Thái tử rất ấm, ta ôm hắn ngủ hai đêm liền mà không còn khóc, cũng không mơ thấy ác mộng.
Sáng hôm sau, khi ta tỉnh dậy, Thái tử đã tỉnh.
Hắn lặng lẽ nhìn ta trong lòng hắn, sắc xanh xám trên khuôn mặt dần dần tan đi.
“Ngươi tỉnh rồi sao?”
Thịnh Diễn gật đầu, đôi mắt đen sâu thẳm như mặt hồ phủ đầy sương sớm. Giọng hắn khàn khàn, nhưng vẫn dễ nghe vô cùng.
“Ngươi… đã tìm được cha ngươi chưa? Vì sao lại ở… Đông Cung?”
Ta kể cho hắn nghe chuyện sau khi trở về kinh thành, nhắc đến cha, nước mắt không kìm được mà rơi xuống.
“Hắn không thích Chiêu Nhi, hắn chỉ thích tỷ tỷ thôi. Chiêu Nhi sẽ không về đó nữa.”
Thịnh Diễn nhíu mày nghe ta kể xong, hồi lâu sau mới nhẹ nhàng xoa đầu ta:
“Đã vào Đông Cung rồi, bất kể thế nào, bản cung cũng sẽ không để ai ức hiếp ngươi.”
Cửa sổ son khẽ mở, ánh sáng mỏng manh xuyên qua những khe hở trên khung cửa vạn tự, rơi xuống khuôn mặt tuấn mỹ vô song của hắn.
Ngày hôm đó, ánh mặt trời rất đẹp.
Trong làn ánh sáng lờ mờ, ta thấy bà khẽ mỉm cười nhìn ta, rồi dần dần rời đi, tan vào màn sương mờ ảo.
Ta lập tức chạy đến phòng bên cạnh, muốn báo tin tốt này cho thái y.
Nhưng chỉ mới ba ngày trôi qua, căn phòng đã nồng nặc mùi hôi thối của xác chết.
Thái y đã chết rồi.
Chết trong tư thế mở to mắt, cứ thế nhìn về phía cửa.
Ta khóc nức nở chạy về tìm Thịnh Diễn.
Hắn lặng lẽ nhìn ta, trầm giọng nói:
“Thế gian vốn vô thường, sinh lão bệnh tử là lẽ đương nhiên.”
Hắn lại xoa đầu ta, khẽ thở dài:
“Bản cung sống sót, chẳng qua chỉ là do ông trời thương hại mà thôi.”
Ta cùng Thịnh Diễn ở Đông Cung thêm nửa tháng.
Từ khi hắn tỉnh lại, hắn không cho ta dùng máu để nuôi hắn nữa.
Hắn nói ta còn nhỏ, không chịu nổi, hắn là nam nhân, thân thể cường tráng, sẽ tự mình hồi phục.
Lúc đầu ta không tin. Nhưng hắn uống thuốc thêm mấy ngày, thật sự có thể tự xuống giường.
Ta vui đến mức ôm chầm lấy hắn, hôn một cái lên má hắn.
Thịnh Diễn hơi sững sờ, rồi khẽ cười:
“Bản cung không ngờ, người đầu tiên hôn bản cung lại là một đứa trẻ sáu tuổi.”
“Trẻ con thì sao chứ? Nương nương nói, đã vào Đông Cung thì phải ở bên Thái tử trọn đời. Chiêu Nhi muốn theo ngươi cả đời.”
Thịnh Diễn nhíu mày nghe ta kể xong, hồi lâu sau mới nhẹ nhàng xoa đầu ta:
“Đã vào Đông Cung rồi, bất kể thế nào, bản cung cũng sẽ không để ai ức hiếp ngươi.”
Cửa sổ son khẽ mở, ánh sáng mỏng manh xuyên qua những khe hở trên khung cửa vạn tự, rơi xuống khuôn mặt tuấn mỹ vô song của hắn.
Ngày hôm đó, ánh mặt trời rất đẹp.
Bà xuất hiện trong làn ánh sáng lờ mờ, khẽ mỉm cười nhìn ta, rồi dần dần rời đi, tan vào màn sương mờ ảo.
Thịnh Diễn tỉnh lại, ta lập tức chạy đến phòng bên cạnh, muốn báo tin tốt này cho thái y.
Nhưng chỉ mới ba ngày trôi qua, căn phòng đã nồng nặc mùi hôi thối của xác chết.
Thái y đã chết rồi.
Chết trong tư thế mở to mắt, cứ thế nhìn về phía cửa.
Ta khóc nức nở chạy về tìm Thịnh Diễn.
Hắn lặng lẽ nhìn ta, trầm giọng nói:
“Thế gian vốn vô thường, sinh lão bệnh tử là lẽ đương nhiên.”
Hắn lại xoa đầu ta, khẽ thở dài:
“Bản cung sống sót, chẳng qua chỉ là do ông trời thương hại mà thôi.”
Ta cùng Thịnh Diễn ở Đông Cung thêm nửa tháng.
Từ khi hắn tỉnh lại, hắn không cho ta dùng máu để nuôi hắn nữa.
Hắn nói ta còn nhỏ, không chịu nổi, hắn là nam nhân, thân thể cường tráng, sẽ tự mình hồi phục.
Lúc đầu ta không tin. Nhưng hắn uống thuốc thêm mấy ngày, thật sự có thể tự xuống giường.
Ta vui đến mức ôm chầm lấy hắn, hôn một cái lên má hắn.
Thịnh Diễn hơi sững sờ, rồi khẽ cười:
“Bản cung không ngờ, người đầu tiên hôn bản cung lại là một đứa trẻ sáu tuổi.”
“Trẻ con thì sao chứ? Nương nương nói, đã vào Đông Cung thì phải ở bên Thái tử trọn đời. Chiêu Nhi muốn theo ngươi cả đời.”
Nghe ta nói xong, Thịnh Diễn đột nhiên thu lại nụ cười, vẻ mặt trở nên lạnh nhạt, không còn chút vui vẻ nào.
“Ngốc nghếch. Ngươi có biết không, khi đó, lời bà ấy nói… không phải theo cách ngươi hiểu. Bà ấy cũng không phải là người tốt như trong lòng ngươi nghĩ. Về sau, hãy tránh xa bà ấy một chút.”
Khi đó, ta vẫn chưa biết, triều đình nhà Thịnh có một luật lệ: Nếu Thái tử băng hà, phi tần phải theo hầu dưới suối vàng.
Đêm Thái tử mất, sẽ có cung nhân vào Đông Cung, dùng mê hương khiến ta bất tỉnh, sau đó đổ thủy ngân vào đầu ta, để thân thể không bị phân hủy, giữ nguyên dung mạo xinh đẹp hầu hạ Thái tử sau khi chết.
Trong mắt người trong cung, chưa từng có chuyện ta và Thịnh Diễn còn sống bước ra khỏi Đông Cung.
Ngay cả Hoàng hậu cũng vậy.
Nửa tháng sau, Thịnh Diễn dẫn ta vào cung.
Chỉ hơn hai mươi ngày, Hoàng hậu đã già đi cả chục tuổi, hai bên tóc mai đã bạc trắng, khóc đến mức suýt ngất xỉu.
Thịnh Diễn lại một mình yết kiến Hoàng đế.
Hoàng đế ra lệnh phong tỏa Đông Cung, lấy lý do nơi đây có dịch bệnh.
Thịnh Diễn bèn đưa ta đến ở tại Thái tử phủ ngoài cung.
Vì công lao cứu giá, ta chính thức được sắc phong làm Thái tử Trắc phi.
Chỉ sau một ngày, khắp kinh thành đều truyền tai nhau rằng: Thái tử điện hạ anh minh thần võ đã thành thân, mà Trắc phi nương nương chỉ là một bé gái sáu tuổi.
Sau khi được sắc phong, người đầu tiên đến thăm ta chính là cha ta.
Hôm ấy, ông đưa cả tỷ tỷ con của chính thất đến.
“Vi thần tham kiến Trắc phi nương nương. Từ khi nương nương vào Đông Cung, vi thần ăn không ngon ngủ không yên, ngày ngày lo lắng bất an. Nay nghe tin điện hạ và nương nương thoát khỏi kiếp nạn, vi thần không thể chờ đợi thêm một khắc, phải lập tức đến bái kiến nương nương mới an lòng.”
Đầu tiên thấy cha đối xử thân thiết với ta như vậy, ta có chút vui mừng, chạy lon ton về phía ông, định để ông ôm ta vào lòng.
Nhưng chưa kịp đến gần, ta đã bị tỷ tỷ Nguyễn Nguyễn chặn lại.
Nguyễn Nguyễn tỷ tỷ là cung nữ mà Hoàng hậu nương nương ban cho ta. Kể từ khi ta được sắc phong Thái tử Trắc phi, tỷ ấy liền theo hầu ta sát bên.
“Đại nhân có lòng, nương nương nhà chúng ta xin nhận. Nhưng hiện giờ nương nương đã nhập Đông Cung, đại nhân tự tiện đến đây quả thực không hợp lễ nghi. Nếu sau này muốn gặp nương nương, xin hãy gửi thiệp bái trước vào Đông Cung.”
Nguyễn Nguyễn tỷ đứng thẳng lưng, không cho cha ta sắc mặt tốt.
Trong ấn tượng của ta, cha là một vị quan lớn.
Bà mỗi lần nhắc đến cha đều mang theo sợ hãi, không quên căn dặn ta rằng sau này gặp cha, nhất định phải quỳ xuống đầu tiên, phải nói năng cẩn thận, không được lỗ mãng khiến cha tức giận.
Khi chúng ta còn ở thôn Vĩnh An, mọi chi phí sinh hoạt đều dựa vào tiền tiếp tế từ cha.
Cứ mỗi vài tháng, sẽ có một gia nhân đến gửi bạc.
Bà luôn khom lưng cảm tạ, còn quỳ xuống đất dập đầu ba cái để bày tỏ lòng biết ơn.
Nhưng hôm nay, khi đứng trước Nguyễn Nguyễn tỷ, cha ta lại không dám ngẩng đầu, chỉ biết cúi gằm mặt, liên tục gật đầu, vâng dạ:
“Đúng, đúng, đúng, cô nương nói rất đúng. Lần sau vi thần nhất định sẽ gửi thiệp bái trước. Hôm nay thực sự quá gấp gáp, vi thần nhất định sẽ đợi điện hạ hồi phủ để tự mình tạ tội với điện hạ.”
Cha vừa nói vừa đỡ lấy tỷ tỷ ruột của ta, cúi người đầy kính cẩn, dáng vẻ cực kỳ sợ hãi, như thể không dám đắc tội với Nguyễn Nguyễn tỷ.
Thế nhưng, Nguyễn Nguyễn tỷ không vì thái độ khép nép của ông mà mềm lòng, ngược lại còn càng thêm giận dữ.
Tỷ ấy giơ tay chỉ vào cha ta, giọng nghiêm khắc trách mắng:
“Đại nhân thật có lòng quá nhỉ. Khi chính con gái ruột của mình bị đưa vào Đông Cung chịu chết thì không hề can ngăn! Bây giờ lại giả vờ làm một người cha tốt, còn mang theo tiểu thư nhà mình đến đây? Có phải là khinh thường nương nương nhà ta còn nhỏ tuổi, nên muốn qua mặt hay không?”
Nghe vậy, sắc mặt cha ta hơi biến đổi, giọng điệu cũng gấp gáp:
“Cô nương, lời này là có ý gì? Vi thần… thực sự không hiểu.”
Nguyễn Nguyễn tỷ khẽ cười lạnh:
“Đại nhân không cần giả vờ ngu ngốc trước mặt nô tỳ. Đại nhân đối xử với nương nương thế nào, Thái tử điện hạ đều rõ ràng cả. Điện hạ đã nói, nếu đại nhân thực lòng coi nương nương là con gái ruột của mình, thì đừng làm những chuyện hồ đồ. Điện hạ sủng ái nương nương, tất nhiên cũng sẽ chiếu cố đại nhân. Nhưng nếu đại nhân hồ đồ…”
Nói đến chữ “hồ đồ”, ánh mắt Nguyễn Nguyễn tỷ lại dừng trên người tỷ tỷ ruột của ta, chậm rãi nhấn mạnh:
“Chúng ta cũng không ngại thay nương nương đổi một vị phụ thân khác tốt hơn.”
Cha ta đột nhiên trợn to mắt, trán đổ đầy mồ hôi lạnh, cũng chẳng màng đến việc dìu tỷ tỷ của ta nữa.
“Bộp!”
Ông quỳ rạp xuống, không ngừng dập đầu, giọng run rẩy:
“Vi thần hiểu rồi, vi thần hiểu rồi! Vi thần lập tức trở về, mong điện hạ rộng lòng tha thứ…”
Nguyễn Nguyễn tỷ cười nhạt, không buồn nhìn thêm, liền kéo ta quay trở lại phủ.
Ta nghiêng đầu nhìn tỷ ấy, tò mò hỏi:
“Tại sao cha lại sợ đến như vậy? Có phải là không muốn để Chiêu Nhi đổi phụ thân, là vì ông ấy không nỡ xa Chiêu Nhi sao?”
Nguyễn Nguyễn tỷ khẽ siết tay ta, giọng dịu dàng nhưng ánh mắt lại đầy khinh thường, còn phun về phía cha một tiếng “phì!”:
“Hắn đâu phải không nỡ rời xa nương nương, mà là không nỡ buông tay khỏi bổng lộc quyền quý ngập trời này.”
Tỷ ấy cúi đầu nhìn ta, khóe môi khẽ nhếch lên, giọng nói mang theo chút trào phúng:
“Điện hạ sớm đã căn dặn nô tỳ, nếu gặp Thừa Sự Lang đại nhân, thì không cần khách khí. Hắn vào triều bao nhiêu năm cũng chỉ là một quan viên tán chức phẩm cấp thấp. Nay khó khăn lắm mới có được một chỗ dựa vững chắc như nương nương, hắn làm sao cam tâm buông bỏ?”
Ta ngơ ngác nhìn tỷ ấy, dường như vừa hiểu ra điều gì.
Hóa ra cha ta cũng không vĩ đại như bà từng nói.
Hóa ra ta không cần phải quỳ trước ông ấy, cũng chẳng cần phải cố gắng lấy lòng ông ấy.
Ta vẫn có thể sống tốt, rất tốt.