Ngày thứ hai mươi tám, các đại phu nghiên cứu ra bài thuốc mới.
Ngày thứ ba mươi hai, bài thuốc bắt đầu cho thấy hiệu quả.
Ngày thứ ba mươi bảy, đại phu thông báo tỷ tỷ của ta đã có thể ăn một bát cháo loãng.
Bạch Thủ Trúc nói với ta, đừng trách tỷ ấy. Tỷ ấy không cố ý hành hạ cơ thể mình, chỉ là tỷ ấy không thể nấp sau cánh cửa kia.
Ta nói, “Ta hiểu mà.”
Ta thật sự hiểu. Trong hoàn cảnh sục sôi ấy, người dân cần một nơi để trút bỏ phẫn uất.
Để bảo vệ danh tiếng tổ tiên họ Dịch, để bảo vệ ta an toàn trong cánh cửa, để chứng minh Chúng Sinh Sở không sai, tỷ tỷ yếu ớt nhưng kiên cường của ta đã đứng ngoài cửa, trở thành bức tường chắn.
Ngày thứ bốn mươi, người bệnh đầu tiên khỏi bệnh rời khỏi Chúng Sinh Sở, tận hưởng ánh mặt trời. Tiếng hò reo vui mừng và cảm ơn trời đất vang vọng qua cánh cửa gỗ đỏ nâu.
Ngày thứ bốn mươi lăm, số người khỏi bệnh vượt qua con số một trăm.
Ngày thứ năm mươi, lần đầu tiên số người khỏi bệnh vượt qua số người nhiễm.
Ngày thứ sáu mươi, ôn dịch trong Khởi Châu tuy chưa hoàn toàn được loại bỏ nhưng đã nằm trong tầm kiểm soát.
Ngày thứ sáu mươi mốt, tỷ tỷ ta dần bình phục, được phép rời khỏi giường và đi lại một chút.
Ngày thứ bảy mươi, ta quyết định đưa tỷ tỷ rời khỏi Khởi Châu. Bạch Thủ Trúc đi cùng chúng ta.
Trên đường, tỷ tỷ nói:
“An An, muội đừng trách họ.”
Ta đáp: “Được.”
Ta thực sự không trách họ, nhưng lòng vẫn đau nhói.
Ta không muốn tỷ ấy phải ở lại Khởi Châu dưỡng bệnh.
Ngày chúngcta rời đi là đã cuối hạ, trời hiếm khi trong xanh như thế. Ánh mặt trời xuyên qua tầng mây, chiếu rọi vào đám đông náo nhiệt, mang lại sức sống tràn trề cho Khởi Châu.
Dân chúng tự nguyện tập trung ở con đường dẫn ra khỏi thành, tiễn biệt chúng ta.
Tại cổng thành, ta thấy vài gương mặt quen thuộc. Đó là những người ta từng nhìn thấy trong đêm tối đầy sợ hãi ấy. Họ gầy gò, đôi bàn tay đen sạm đan vào nhau, miệng lắp bắp như muốn nói điều gì, nhưng rốt cuộc không thốt nên lời.
Khi chiếc xe rời khỏi Khởi Châu, ta vén rèm nhìn lại.
Dưới bầu trời xanh thẳm như ngọc, dòng người lặng lẽ mà đông đúc vẫn đứng đó, ánh mắt dõi theo tiễn biệt.
Khoảng cách xa dần, kéo dài tầm nhìn của ta nhưng vẫn không thấy được điểm tận cùng dòng người ấy.
Bạch Thủ Trúc cố ý kéo dài lộ trình hồi kinh, điều này khiến ta rất hài lòng.
Hành trình chậm rãi giúp tỷ tỷ có thời gian đặt mắt lên cảnh sắc thiên nhiên, xoa dịu những vết thương trong lòng.
Bạch Thủ Trúc cũng giống như một người huynh trưởng, luôn ở bên đồng hành cùng chúng ta.
Chúng ta đi qua bao thành trì, hòa mình vào không khí náo nhiệt của những phiên chợ nhỏ nơi trấn quê, góp vui trong các lễ cưới của làng mạc, dạo bước qua vườn hoa Giang Nam, thậm chí còn lên thuyền hoa trôi dập dềnh trên Tây Hồ.
Rời khỏi Kỳ Châu, Bạch Thủ Trúc dường như không còn là vị Diêm Vương sống như cái đêm loạn kia nữa, mà hóa thành một quân tử ôn nhu như mực, phong thái nhã nhặn.
Đêm hôm ấy, dù được hộ vệ bảo vệ bằng cả tính mạng nhưng tỷ tỷ đã bất tỉnh từ lâu. Vì vậy, tỷ vẫn luôn cho rằng bản chất của chàng chính là một quân tử tao nhã.
Quân tử đoan chính.
Đêm Thất Tịch, chúng ta đến Lương Châu, chỉ cách kinh thành ba ngày đường.
Trên cây cầu Lương Châu, ta mải mê ngắm nhìn những chiếc hoa đăng rực rỡ sắc màu, trong thoáng chốc, bên cạnh chỉ còn lại nha hoàn và hộ vệ, bóng dáng tỷ tỷ và Bạch công tử chỉ còn phảng phất nơi xa.
Công tử tựa mực tàu, mỹ nhân tựa ngọc.
Đến lúc này, ta mới chậm chạp nhận ra rằng, điều Bạch Thủ Trúc muốn không phải là làm huynh trưởng của chúng ta. Huynh ấy muốn làm tỷ phu của ta.
Ta giữ khuôn mặt không biểu cảm, một mình thả mười chiếc hoa đăng xuống sông.
Hy vọng hoa đăng của ta có thể chặn đường trôi của hoa đăng tỷ tỷ và ai đó phía hạ lưu.
Tối hôm đó, tỷ tỷ quay về với vẻ mặt đầy chột dạ. Ta chăm chú nhìn tỷ mà không nói lời nào.
Khuôn mặt tỷ tỷ đã có chút thịt sau bao ngày gầy yếu, đôi mắt khẽ chớp, lặng lẽ liếc nhìn ta đầy vẻ sợ hãi.
Thôi được, thôi được rồi, ta giơ hai tay lên đầu hàng.
Tỷ tỷ lập tức nở nụ cười tinh nghịch:
“Ta biết ngay An An là tốt nhất mà!”
Sau khi trở về kinh, mẫu thân nổi trận lôi đình, phạt chúng ta cấm túc một tháng.
Nhưng điều đó không ngăn được nỗi nhớ nhung của ai kia.
Nhà họ Bạch thường xuyên lấy cớ vì mối quan hệ giao hảo tại Kỳ Châu để mang lễ vật đến thăm viếng, mà lần nào Bạch Thủ Trúc cũng góp mặt.
Lễ vật được mang đến luôn kèm theo những món quà nhỏ bất ngờ.
Vì thế, khi tỷ tỷ nhận được cả một kho báu hiếm lạ, ta cũng được “lây” không ít món đồ chơi nho nhỏ.
“…”
Tâm trạng ta thật phức tạp. Ta không ghét Bạch Thủ Trúc, thậm chí nghĩ rằng người có năng lực mới có thể bảo vệ tỷ tỷ của ta.
Ta vẫn luôn nhớ rằng, tại Kỳ Châu, trong giữa loạn dân, chính Bạch Thủ Trúc đã che chở cho chúng ta.
Nhưng ta thật lòng không muốn ngày nào cũng phải chứng kiến cảnh hai người bọn họ tình chàng ý thiếp. Vậy nên, ta xung phong giúp mẫu thân quản lý công việc trong phủ. Mắt không thấy, tâm không phiền.
…
Năm mười lăm tuổi, lễ cập kê của chúng ta được tổ chức vô cùng trang trọng.
Mẫu thân là người chính tay cài trâm cho chúng ta.
Khách khứa đông đúc, tiếng khen ngợi của các nữ quyến không ngớt bên tai.
Vinh hạnh hơn nữa là trong cung cũng ban thưởng báu vật, cử người đến dự lễ, làm rạng danh gia đình chúng ta.
Duy có một điều tiếc nuối là đại ca, người đang trấn thủ Tây Bắc, vốn định trở về tham dự, nhưng vào phút chót bị sự biến động với Khương Quốc giữ chân lại.
Huynh ấy gửi về một lượng lớn báu vật cùng một bức thư tạ lỗi.
Gia huấn nhà họ Dịch, trung quân ái quốc. Khi kiểm tra lại danh sách lễ vật để niêm phong, ta phát hiện trong số báu vật của Thái Hậu có một chiếc trâm phượng bằng ngọc trắng pha sắc đỏ, không được ghi vào danh sách.
Ánh chiều tà vàng úa hắt lên chiếc trâm, khiến nó trong suốt lạ thường, vừa băng lạnh vừa sắc bén.
Ta khựng lại một chút, không nói gì, lặng lẽ niêm phong danh sách lễ vật.
Sau lễ cập kê, quan hệ qua lại giữa hai nhà họ Dịch và họ Bạch càng thêm thân thiết.
Cha mẹ hai bên ngầm chấp thuận hôn sự này và cũng rất vui mừng.
Trước ngày tỷ tỷ và Bạch gia chính thức đính ước, ta hỏi tỷ rằng tỷ có thật sự muốn gả cho Bạch Thủ Trúc không?
Tỷ tỷ đáp, từ đêm Thất Tịch, tỷ đã quyết định – “Núi không còn góc, trời đất hòa hợp, cả đời này chỉ có thể là chàng.”
Tỷ nói, chàng đã hứa đời này chỉ có một mình tỷ.
Tỷ nói, tỷ rất sợ đau, khi ở Kỳ Châu, Bạch Thủ Trúc nghe người ta bảo những điều đẹp đẽ sẽ làm vơi bớt nỗi đau, nên chàng đã vụng về gom hoa lan của cả nửa thành bày ngay ngoài cửa sổ để tỷ có thể nhìn thấy khi vừa tỉnh dậy.
Tỷ còn nói, tỷ sẽ hạnh phúc. An An cũng phải hạnh phúc.
Ta bảo, được, tỷ sẽ hạnh phúc, mọi người đều sẽ hạnh phúc, giống như cái tên của chúng ta, nhà họ Dịch sẽ cả đời bình an.
Đêm khuya, khi tỷ tỷ đã ngủ say, ta lặng lẽ bước đến phòng chính của phụ mẫu.
Ánh trăng sáng rọi cả gian phòng. Ta bình tĩnh quỳ trước mặt phụ mẫu, nhận lấy chiếc trâm phượng bằng ngọc trắng đỏ ấy.