14
Ông lão bị thương rất nặng, ta không còn để ý đến vết thương trên người mình nữa, vội vàng đỡ ông vào trong nhà.
Ông mở mắt, vỗ nhẹ lên tay ta, cố gắng nở một nụ cười yếu ớt.
“Nha đầu A Ngôn, không sao đâu, đừng lo. Con đừng nhìn ta già cả thế này, thân thể ta vẫn cứng cáp lắm.”
Nói xong ông ho mạnh, một vũng máu đen rơi xuống đất. Thấy ta lo lắng, ông đưa tay lau đi rồi tiếp tục nói: “Chỉ là bệnh cũ thôi, không cần lo.”
Ta đỡ ông ngồi dậy, lấy thuốc cầm máu và quần áo sạch ra. Định giúp ông bôi thuốc, nhưng ông khăng khăng muốn tự làm, nên ta đành phải đứng ngoài cửa chờ.
Từ trong phòng thỉnh thoảng vang lên vài tiếng rên khẽ, cho thấy vết thương của ông không hề nhẹ như ông nói. Dù đã sống cùng ông gần một năm, ta thật sự chẳng biết gì về ông.
Chỉ đến hôm nay ta mới biết ông từng là đệ tử của Thiên Thánh Tông, là sư đệ của chưởng môn Triệu.
Chưởng môn nói ông là kẻ suýt giết sư, một nghịch đồ. Ta không tin điều đó, một người hiền lành, chính trực như ông sao có thể là nghịch đồ được. Chắc chắn có điều gì đó hiểu lầm.
Một lát sau, ông gọi ta vào sau khi đã băng bó vết thương xong. Sắc mặt ông nhợt nhạt, nhưng vẫn giúp ta băng bó tay rồi kể cho ta nghe về câu chuyện của ông.
Bốn mươi năm trước, ông và Triệu Hoài Chi đều là đệ tử dưới trướng Đạo Nguyên chân nhân. Hai người nhập môn trước sau không xa, mối quan hệ rất tốt. Triệu Hoài Chi không có thiên phú bằng ông, nhưng bù lại vô cùng chăm chỉ. Còn ông, hôm nay đánh cá, ngày mai phơi nắng, khi người khác tu luyện chăm chỉ, ông chỉ ở dưới chân núi, chăm sóc một mảnh đất nhỏ, ban ngày trồng dược thảo, ban đêm đếm sao.
Đạo Nguyên chân nhân chê ông không chịu cố gắng, bắt ông xuống núi rèn luyện. Ông lang bạt khắp nơi, rồi gặp một cô gái tên A Hoa ở ngoại ô thành Hạc Châu.
A Hoa là một người ngốc nghếch, lần đầu gặp nàng, nàng đang bị một nhóm ăn mày lừa gạt bằng nửa chiếc bánh bao và bị chúng đè xuống đất xé rách quần áo.
Ông lão tức giận ném kiếm ra, tiếng kiếm vang lên khiến những kẻ ăn mày hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn.
Ông khoác áo cho A Hoa, nàng mở to đôi mắt sáng ngời, cầm nửa chiếc bánh bao đen xì, bẻ đôi ra và đưa cho ông.
“Ăn đi, ngươi ăn đi.”
Ông nhận lấy bánh bao nhưng không ăn, ông muốn đưa nàng đến một nơi an toàn. Nhưng thành Hạc Châu phồn hoa náo nhiệt ấy lại không có nơi nào có thể dung thân cho A Hoa.
Những nữ nhân lộng lẫy tô son điểm phấn, ngoài mặt cười rạng rỡ nhưng sau lưng lại muốn đưa nàng vào những chốn thấp hèn; ông chủ quán cơm mặt mày phúc hậu, ngoài mặt tử tế nhưng sau lưng lại để cho bọn gia nhân nửa đêm lẻn vào phòng A Hoa.
Ông lão giận lắm, liền đưa A Hoa về Thiên Thánh Tông.
Thiên Thánh Tông lớn như vậy, ông nghĩ mình đủ sức nuôi nàng.
Dần dần, ông phát hiện, dù A Hoa ngốc nghếch nhưng làm việc rất nghiêm túc. Ông nhờ nàng trông coi dược thảo, nàng thật sự ngồi yên trên bãi cỏ dưới chân núi, không nhúc nhích, ngay cả khi bụng đói kêu réo cũng chỉ cố gắng thắt lưng thật chặt, nhất quyết không đi ăn.
Trong tông môn, dù nhiều người ngoài mặt không tỏ thái độ, nhưng ánh mắt vẫn toát lên vẻ khinh thường dành cho A Hoa. Ông lão không để ý, dù sao hai người họ cũng chỉ ở sau núi, không cản trở ai cả.
Họ sống như vậy suốt hai năm, cho đến khi hung thú xuất hiện.
15
Con hung thú đó không giống như yêu thú bình thường, nó chạy ra từ sâu trong Ma Uyên và tàn sát nhiều ngôi làng xung quanh.
Các môn phái tu tiên do Thiên Thánh Tông đứng đầu đã hợp lực tiêu diệt nó, nhưng con thú rất tinh ranh, khó mà bắt được.
Ngày đó, Đạo Nguyên chân nhân triệu tập Triệu Hoài Chi và ông lão đến chính điện bàn chuyện. Ông lão vì phải chăm sóc A Hoa đang ốm nên đến trễ, tình cờ nghe thấy cuộc nói chuyện của họ.
Các môn phái đã bố trí bẫy trên đường đi của hung thú. Nhiệm vụ quan trọng nhất lúc này là Thiên Thánh Tông phải làm gương, cử một người làm mồi nhử để dẫn dụ hung thú xuất hiện.
Trong tông môn, tất cả đệ tử đều do Đạo Nguyên đích thân chỉ dạy, ông không đành lòng để họ làm mồi nhử, nên mới gọi Triệu Hoài Chi và ông lão đến để bàn bạc.
Trong điện, Triệu Hoài Chi lộ rõ vẻ khó xử, ông lão biết ý, không chút do dự nói:
“Sư phụ, hãy để con đi.”
Ông lão ngày thường làm việc lơ là, nhưng lại có thiên phú rất cao. Dù Triệu Hoài Chi cố gắng nỗ lực đến đâu, cũng chỉ có thể miễn cưỡng sánh ngang với ông. Đạo Nguyên không nỡ để ông làm mồi nhử.
Sau một hồi bàn bạc nhưng không tìm ra được cách giải quyết, đêm đó ông lão thu dọn hành trang, kéo chăn đắp kín cho A Hoa, quyết định một mình tiến vào Ma Uyên.
Tu tiên là để đạt được đại đạo, bảo vệ chúng sinh.
Giờ đây chúng sinh gặp nạn, là người tu tiên, sao ông có thể khoanh tay đứng nhìn?
Dù có đi mà không về, ông cũng không hối tiếc.
Nhưng khi ông vừa bước đến cổng tông môn, đã bị người ta đánh ngất.
Khi tỉnh lại, ông đã về đến tiểu viện của mình, còn A Hoa đã biến mất.
Ông tìm nàng khắp nơi, Triệu Hoài Chi nói rằng nàng có lẽ đã bỏ trốn, đồng môn trong tông bảo không hề thấy nàng. Sư phụ ông nói, con người có duyên có phận, nếu nàng đã đi thì nên buông bỏ.
Ông không tin. A Hoa ngốc nghếch, vốn không biết đường, nàng có thể đi đâu chứ? Nhưng ông lục tung cả Thiên Thánh Tông, cũng không thể tìm thấy nàng.
Trong khi đó, con hung thú khó bắt đã bị tiêu diệt.
Các môn phái tu tiên hội tụ tại Thiên Thánh Tông, mở một tiệc lớn để ăn mừng và bàn cách phân chia bảo vật trên thân hung thú.
Có người uống rượu say, nói thẳng rằng Thiên Thánh Tông nên được chia phần lớn nhất, vì nếu không có sự hy sinh của họ, việc bắt hung thú sẽ không suôn sẻ như vậy.
Họ nói hung thú rất tàn nhẫn, rằng cô nương đã bị nó xé nát thành từng mảnh, chỉ còn lại máu me và thịt vụn vương vãi khắp nơi.
Đầu ông lão ong lên, ông lao ra khỏi tông môn, chạy thẳng đến Ma Uyên, tìm kiếm dọc theo con đường mà họ đã đặt bẫy.
Mưa lớn đã cuốn trôi tất cả dấu vết, không để lại dù chỉ một sợi tóc.
Cuối cùng, ông chỉ tìm thấy miếng ngọc bội của mình trong đống cỏ dại.
Đó là miếng ngọc mà đêm đó ông đã đeo lên cổ A Hoa trước khi rời đi.
Ông đã nghĩ, nếu mình không thể quay về, thì đồng môn trong tông sẽ thấy miếng ngọc và giúp đỡ chăm sóc cho nàng. Nhưng không ngờ rằng, sư phụ ông vì không nỡ để ông đi chết, đã sai Triệu Hoài Chi đánh ngất ông, rồi đưa A Hoa ra làm mồi nhử hung thú.
Họ nói luôn cần có người hy sinh, một người là đệ tử tài giỏi của Thiên Thánh Tông, một người là cô gái ngốc nghếch không gia đình. Ai nặng ai nhẹ, ai mà không rõ chứ?
Ngày đó, ông lao vào đại điện chỉ để đòi lại công lý. Mũi kiếm của ông đã cắt rách tà áo của sư phụ, Triệu Hoài Chi giáng một chưởng vào ngực ông.
Ông bị ép phải quỳ xuống, sư phụ mà ông luôn kính trọng chỉ đứng đó, lắc đầu thở dài.
“Kính An, tâm ý của vi sư, sao con không hiểu chứ?”
Sư huynh mà ông tôn kính, cũng chỉ đứng đó với vẻ mặt thờ ơ.
“Kẻ mạnh sống, kẻ yếu chết, đó mới là quy luật của sự sống. Chu Kính An, ngươi thật quá hồ đồ.”
Khoảnh khắc đó, ông mới chợt tỉnh ngộ. Hóa ra nơi này chưa bao giờ có con đường mà ông theo đuổi, hóa ra “chúng sinh bình đẳng” chỉ là lời nói suông trên miệng họ.
Chúng sinh vốn không bao giờ bình đẳng.
16
Kể đến đây, ông lão lại bắt đầu ho ra máu, máu vẫn đen ngòm. Rõ ràng đây không chỉ là vết thương cũ cộng thêm vết thương mới, mà ông đã trúng độc từ lâu.
Năm đó, ông kiên quyết rời khỏi Thiên Thánh Tông, không muốn tiếp tục tu tiên, bị gán tội danh “sát hại sư phụ” và bị trục xuất khỏi tông môn.
Trước khi chia tay, Triệu Hoài Chi đã mời ông uống một bát rượu, nói rằng từ đây núi sông khó gặp lại, mong ông trân trọng.
Rượu không độc, thơm nồng, ông uống một hơi cạn sạch, nhưng nửa năm sau độc phát.
Thì ra, trong bát rượu đó, độc đã được bôi lên miệng bát.
Triệu Hoài Chi từ đầu đến cuối vẫn không yên tâm về ông. Y lo rằng một ngày nào đó ông sẽ quay lại con đường tu tiên và lại vượt lên trên y, điều đó y không thể chấp nhận được.
Ta đưa cho ông chiếc khăn sạch và nước, đợi ông súc miệng xong rồi hỏi:
“Tiền bối trúng độc đã nhiều năm như vậy, chẳng lẽ không có cách giải sao?”
“Có, ở sâu trong Ma Uyên, có một vách núi với loài cỏ ngọc linh mọc trên đó, ngàn năm mới sinh ra một cây, có thể giải mọi loại độc.”
“Chỉ tiếc rằng gần ngàn năm qua, phong ấn của Ma Uyên đã lỏng lẻo, ma khí ở khu vực đó càng mạnh hơn. Đã rất lâu không có tu sĩ nào tiếp cận được nơi đó. Ta đã sống ở đây lâu như vậy, cũng đã nhiều lần cố gắng vào Ma Uyên, nhưng đều thất bại trở về, nên thuốc giải có cũng như không.”
Ta rất muốn giúp ông đi lấy thuốc, nhưng với khả năng của ta, chỉ việc đi đến Ma Uyên thôi đã bị ma khí làm bị thương khắp người, thì sao có thể vào sâu trong đó được.
Ông lão thấy ta băn khoăn, liền cười nói: “Nha đầu A Ngôn, con không cần buồn vì ta, chẳng phải ta vẫn sống tốt đó sao. Năm xưa ta không cứu được A Hoa, luôn là nỗi hối hận trong lòng. Lần này, dù thế nào ta cũng phải đưa con đến Thiên Thánh Tông, đòi lại công bằng.”
Vết thương của ông cần tĩnh dưỡng, nhưng ông vẫn cố gắng thu dọn hành trang để đi Thiên Thánh Tông cùng ta. Ta hết lời khuyên nhủ, cuối cùng ông mới đồng ý ở lại dưỡng thương trước.
Đêm đến, ta một mình tựa vào cửa sổ, nhìn tuyết rơi lả tả bên ngoài, chợt nhớ về quá khứ của mình.
Ta vốn là trẻ mồ côi, được một cặp phu thê trong làng nhặt về nuôi đến năm mười một tuổi.
Mẹ nuôi hiền lành, cha nuôi lại nghiện cờ bạc. Mỗi khi ông ta uống say, cơn giận không có nơi trút liền biến thành những cú đấm nện xuống người ta và mẹ nuôi.
Đêm khuya thanh vắng, chờ ông ta say ngủ, ta và mẹ nuôi mới dám lén ngồi ngoài cửa, dưới ánh nến leo lắt mà bôi thuốc cho nhau.
Khi đó ta nghĩ, đợi ta lớn thêm chút nữa, nhất định phải đưa mẹ nuôi rời khỏi nơi này.
Cho đến một đêm, khi ta ra ngoài đi vệ sinh, thấy trong nhà họ vẫn còn đèn sáng, liền nép vào tường nghe lén.
Mẹ nuôi nhút nhát của ta vừa xoa bóp vai cho cha nuôi, vừa khẽ khàng nói:
“Nhẫn thêm chút nữa đi, A Ngôn mới có mười một tuổi, còn quá nhỏ.”
Cha nuôi xoay người, giáng một cái tát lên mặt mẹ nuôi.
“Con đàn bà thối tha, chẳng phải vì mày không đẻ được sao, khiến tao mấy năm nay không có nổi một đứa con trai. Tao nói cho mày biết, con nhóc đó, tao đã nuôi nó mười một năm rồi, nhiều nhất là nhịn thêm nửa năm nữa thôi, tao nhất định sẽ làm nó mang thai, nó phải sinh cho tao một đứa con trai!”
Ta nấp bên ngoài, bịt chặt miệng, không dám phát ra tiếng động, toàn thân run rẩy không ngừng.
Ta sợ hãi tột cùng, nhưng không có cách nào thoát ra. Ngoại trừ ta, cả làng đều biết ta được nuôi dưỡng để sinh con cho người đàn ông đó.
Bất kể ta đi đến đâu, sẽ luôn bị đưa trở lại. Những người đàn ông lớn hơn ta hai giáp trong làng vuốt má ta và cười nói: “Thật là xinh đẹp, lão Tào đúng là chọn được đứa con gái tốt.”
Ta không có chỗ trốn, ngay cả mẹ nuôi cũng thay đổi, thô bạo véo chặt cánh tay ta.
“Đồ nhãi con, mày còn muốn chạy nữa hả!”
Nắm đấm của cha nuôi giơ lên, nhưng cuối cùng không giáng xuống. Bởi vì đêm đó, yêu thú tấn công ngôi làng.
Bọn họ đều chết, cả làng toàn xác chết nằm ngổn ngang, máu bắn tung tóe khắp người ta. Chưởng môn Triệu và Thẩm Thiên Tầm từ trên trời giáng xuống, đưa tay ra với ta.
Họ bảo ta đừng sợ, nói họ đến để cứu ta.
Y phục trắng muốt, dáng dấp phong độ, xuất hiện giữa ánh bình minh. Lúc đó ta đã nghĩ mình cuối cùng cũng được cứu rỗi.
Nhớ lại quá khứ, cuộc đời ngắn ngủi của ta cũng đã gặp nhiều người, nhưng nếu nói về chân tình, chỉ có duy nhất ông lão là thật lòng với ta.
Ta biết ông muốn đưa ta đi đòi lại linh căn, bù đắp cho nỗi hối hận hơn hai mươi năm qua của ông. Nhưng con đường này quá hiểm nguy, hôm nay ông đã bị thương vì ta, nếu mai sau ông lại chết vì ta, ta sẽ áy náy suốt đời.
Vì thế, ta đã hạ quyết tâm, phải đi một lần vì người duy nhất còn đối xử chân thành với ta trên đời này.