Ta: …
Đúng lúc ta đang định từ bỏ, chuẩn bị thử làm những công việc buôn bán khác thì thư của Bùi Nhị Lang kèm theo bốn lượng bạc đã được gửi đến.
Ta không ngờ, chữ viết của chàng lại đẹp như thế, nét chữ cứng cáp, mạnh mẽ, dường như có thể xuyên qua cả tờ giấy.
Điều khiến ta ngạc nhiên hơn là chàng thật sự đã kể lại bí quyết làm đậu hũ cho ta.
Đậu hũ nhà họ Bùi ngon là nhờ hai yếu tố: nước dùng và dầu ba hợp.
Trước khi học làm đậu hũ, Bùi lão gia từng bán dầu. Đậu hũ của người khác, trước khi dọn lên bàn chỉ thêm vài giọt dầu mè thơm. Còn nhà họ Bùi, dầu được làm từ dầu mè, dầu gà, dầu heo, ba loại dầu hòa trộn theo bí quyết riêng.
Bùi Nhị Lang viết cho ta một công thức làm dầu ba hợp. Chàng còn dặn thêm rằng nước dùng có thể thêm lòng gà, làm cho hương vị đậm đà hơn.
Đọc thư mà mắt ta nóng bừng, chàng thật sự tin tưởng ta, coi ta như thân tộc, xem tẩu tử ta như ruột thịt.
Từ khi nhận được lá thư của chàng, mọi việc ta làm đều thuận lợi hơn nhiều.
Đầu tiên, ta tìm được một cửa hàng ưng ý ở góc gần cầu châu, cuối con phố Nam Sư Tử ở huyện thành.
Cửa hàng không lớn, trước đây là một tửu quán nhỏ, có sảnh trước và sân sau. Sảnh trước bày sẵn bàn ghế và quầy hàng, có thể buôn bán; sân sau có giếng nước, bếp núc đầy đủ. Ngoài nhà bếp, còn có một gian ở phía đông để chứa đồ.
Lý do ta hài lòng với nơi này là vì cửa hàng còn có hai phòng trên lầu. Cầu thang ở góc sân sau, hai phòng trên lầu đón được nhiều ánh sáng, cửa sổ nhìn ra phố Sư Tử, cũng có thể nhìn thấy sự nhộn nhịp gần cầu châu.
Ban đầu, khi A Hương đề nghị mở cửa hàng, ta chỉ định dựng quầy ngoài phố mà thôi. Nhưng nếu có lựa chọn tốt hơn, ai lại muốn mỗi ngày đi bốn mươi dặm đường, đẩy xe đến huyện thành bán hàng?
Dù trong tay ta có chút tiền, thuê được xe lừa đi lại, bận rộn từ sáng đến tối, nhưng để lão thái thái và Tiểu Đào ở nhà, khó lòng chăm sóc chu đáo.
Bây giờ thì tốt rồi, tất cả chúng ta có thể dọn vào sống ngay tại cửa hàng ở huyện thành.
Để mở cửa hàng này, ta gần như đã dùng hết của hồi môn của A Hương. Ban đầu, ta có chút lo lắng, sợ thua lỗ, nhưng A Hương lại không sợ. Nàng rất điềm tĩnh nói:
“Sợ gì chứ? Cha ta đã nói rồi, hương vị giống như trước đây. Đậu hũ nhà họ Bùi, còn sợ không bán được sao?”
Nàng nói đúng. Hai năm sau, chúng ta đã thu hồi lại toàn bộ vốn.
Cửa hàng chỉ bán buổi sáng, vì đến trưa là hết sạch. Quán không đủ chỗ ngồi, chúng ta phải bày thêm vài bàn bên ngoài đường, mỗi ngày khách ngồi chật kín.
Nhờ có Triệu đại thúc nên việc chúng ta lấn ra vỉa hè kinh doanh cũng được những tuần bổ trong nha môn nhắm mắt làm ngơ.
Khi bận rộn không xuể, chúng ta buộc phải để cả A Hương khập khiễng đến phụ giúp dọn dẹp. Triệu đại thúc lo lắng con gái bị bắt nạt, thường xuyên mặc quan phục đi tuần phố Sư Tử.
Tiểu Đào cũng theo chúng ta làm việc, còn lão thái thái không có việc gì làm, liền ngồi trước cửa hàng phơi nắng, gặp ai cũng hỏi:
“Ngươi đã ăn đậu hũ nhà chúng ta chưa?”
Năm thứ hai khi cửa hàng hoàn vốn, ta tìm được một trường tư thục, gửi Tiểu Đào đến đó học.
Năm thứ ba, sau khi trừ đi các chi phí sinh hoạt hằng ngày, ta còn tích lũy được năm mươi lượng bạc.
Không ai tin được, một cửa hàng đậu hũ nhỏ bé lại có thể kiếm nhiều tiền đến vậy.
Thực ra, từ lâu ta đã viết thư báo cho Nhị thúc biết, rằng chàng không cần gửi tiền về nữa.
Thời gian thấm thoắt trôi qua ba năm, trong suốt ba năm đó, chúng ta luôn giữ liên lạc qua thư từ.
Lần đầu tiên, ta báo với chàng rằng cửa hàng đã có lãi, chàng không cần gửi tiền nữa, vì ở quân doanh chàng cũng cần chi tiêu, không nên để bản thân quá kham khổ.
Thư gửi đi không thấy hồi âm, cũng không thấy tiền gửi về nữa.
Bùi Nhị Lang vốn là người như vậy, sự xa cách dường như đã khắc sâu vào xương cốt của chàng.
Khi ta bận rộn với việc kinh doanh, không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, cho đến khi vị lính đưa thư ở trạm bưu điện đi ngang qua cửa hàng, thấy ta liền hỏi:
“Tiết Nương tử, nàng có muốn gửi áo bông hay thứ gì khác để giữ ấm không? Bên đó sắp có chiến sự rồi, lạnh lắm. Chúng ta sẽ xuất phát trong hai ngày nữa, nếu muốn gửi thì mau đưa đến.”
Huyện Vân An thuộc quận Tào Châu, tin tức không quá chậm trễ. Sau khi dò hỏi ta mới biết, từ dịp cuối năm, các bộ tộc du mục như Mãn Kim, Thiết Lặc ở phương Bắc liên tục quấy nhiễu và xâm phạm biên giới.
Ban đầu chỉ là những cuộc tấn công nhỏ lẻ, Đại Sở vừa ra quân, chúng liền tản ra không dấu vết.
Cho đến gần đây, chúng đã liên minh với nhau, vượt qua Quan Bắc Giới, chiếm được huyện Vũ Tứ thành Bình, tàn sát mấy trăm người.
Hoàng thượng nổi giận, ra lệnh xuất quân.
Mấy ngày đó, ta không hề ngơi nghỉ, mua thật nhiều áo lông và vải, thức đêm khâu áo lót.
Ra trận đánh giặc, bên ngoài phải mặc giáp, để dễ dàng di chuyển, áo lót mặc bên trong không thể quá dày nhưng vẫn phải giữ ấm được.
Bùi Nhị Lang ước chừng cao tám thước, thân hình cân đối. Ta đã làm một chiếc áo lót vừa vặn với chàng, phần lưng và trước ngực được may kỹ với một lớp lông cừu bên trong. Lông được phủ ở mặt trong, mặc sát người sẽ ấm áp hơn nhiều.
Cùng với chiếc áo khoác và đệm đầu gối đã làm xong, ta vội vàng gửi đến trạm bưu cục, lúc đó mới thở phào nhẹ nhõm.
Trận chiến nơi biên cương đã kéo dài gần ba năm.
Theo lời binh sĩ đưa thư ở trạm bưu cục, quân đội cũng có cấp phát áo ấm, nhưng phần lớn chúng không vừa vặn, bông bên trong mỏng, chỉ tạm chống chọi với giá lạnh.
Những binh lính có điều kiện, gia đình thường gửi áo lót lông cừu cho họ, loại lông cừu này ấm hơn nhiều so với áo khoác.
Trong quân đội, ai nhận được những món này đều được đồng đội ngưỡng mộ. Nếu gia đình có điều kiện hơn, ít nhất họ cũng gửi được đệm đầu gối và áo khoác lót.
Nghe thế, ta bất giác ngạc nhiên:
“Năm nào cũng phải gửi sao?”
“Phải, cô không biết à? Biên cương rất lạnh, gió đông thổi như dao, có thể xuyên qua quần áo mà cắt da thịt. Cũng vì thế mà bọn man di luôn muốn chiếm đất đai của chúng ta, mùa đông đối với chúng thật sự là thử thách khắc nghiệt nhất.”
Ta chau mày, không nói gì thêm.
Nhị thúc tòng quân từ khi còn trẻ, đến nay đã bảy năm, nhưng từ khi ta về nhà họ Bùi, chưa bao giờ thấy Bùi mẫu gửi áo ấm cho chàng. Nghĩ đến đây, lòng không khỏi thở dài.
Năm thứ hai, khi đã có chút dư dả, ta làm cho chàng một chiếc áo lót ấm hơn, cùng với một đôi đệm đầu gối mới, bên trong đều lót kỹ bằng lông dày. Đến năm thứ ba, vẫn như thường lệ, ta tiếp tục gửi đi áo và đồ lót giữ ấm.
Mỗi lần gửi đồ, ta thường kèm theo một bức thư gia đình:
“Lão thái thái vẫn khỏe mạnh, Tiểu Đào đã nhập học tại tư thục, cửa hàng buôn bán phát đạt, gia cảnh yên ổn, mong Nhị thúc đừng lo lắng. Nguyện cầu người bình an trở về.”
“Gia đình mọi sự đều ổn, lão thái thái ăn uống ngon miệng, chỉ có Tiểu Đào học hành không chăm chỉ, cửa hàng đậu hũ ngày càng phát triển, hàng xóm ai cũng nói hương vị giống hệt Bùi đại bá trước kia. Giờ chúng ta còn bán thêm canh gà hầm, mười lăm văn một bát, có thêm bột có thể chấm bánh. Mùa đông ăn một bát rất ấm áp, mong Nhị thúc trở về bình an, nếm thử một bát.”
“Gia đình mọi thứ đều ổn, ta thường dẫn lão thái thái đi dạo quanh cầu, chỉ có Tiểu Đào không biết nghe lời, trốn học ở tư thục, còn đánh nhau với bạn cùng lớp. Mong Nhị thúc về nhà quản dạy, mong nhị thúc bình an trở về.”
Chiến sự ở biên cương căng thẳng, ta không mong đợi sẽ nhận được thư hồi âm từ Bùi Nhị Lang. Nhưng đến năm thứ hai, khi ta gửi thư, quân trạm đã mang đến thư của chàng.
Chữ viết đúng là của chàng, nhưng trong thư chỉ có đúng một chữ “Tốt.” Đến năm thứ ba, thư cũng chỉ có một chữ “Tốt.”
Vì Bùi Nhị Lang, ta luôn theo dõi sát sao tình hình chiến sự nơi biên cương, thường xuyên nhờ Triệu đại thúc dò hỏi tin tức từ nha môn.
Đến năm thứ ba, chiến sự cuối cùng cũng kết thúc. Đại Sở toàn thắng, quân man di bị đánh đuổi, triều đình lập thêm một đồn trú ở phía ngoài Giới Bắc Quan, gọi là Khẩu Hổ Sát.
Hoàng thượng vui mừng, ban lệnh khao thưởng tam quân, luận công ban thưởng.
Mùa đông năm ấy, ta vẫn như thường lệ, mua loại da thuộc thượng hạng để làm áo lót cho Bùi Nhị Lang, nhưng áo còn chưa may xong thì đã nghe tin quân lính ở biên cương được phép trở về kinh, được nghỉ phép về thăm nhà.
Vài ngày sau, Bùi Nhị Lang trở về.
Chàng không về một mình, đi cùng là khoảng tám chín binh sĩ, tất cả đều mặc giáp trụ, đi giày quân đội, cưỡi ngựa chiến, phong thái oai phong lẫm liệt.
Từ cổng Tây ngoại thành, đội kỵ binh tiến vào huyện thành, đi qua phố lớn tới Phố Sư Tử, tiếng vó ngựa rộn ràng vang vọng, thu hút mọi ánh nhìn và bàn tán xôn xao.
Giữa trưa, mặt trời chiếu ấm áp.
Phố Nam Sư Tử, cửa hàng đậu hũ của ta đang đông khách. A Hương đang múc đậu hũ cho khách, còn ta bưng đậu hũ ra ngoài cho thực khách.
Khi ta vừa đặt hai bát đậu hũ xuống bàn ngoài đường, bất chợt nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa đến gần.
Nhìn theo âm thanh, ta thấy mọi người trên phố dạt sang hai bên né tránh, nhường đường cho một đội kỵ binh.
Con ngựa dẫn đầu nhấc cao chân trước, chậm rãi dừng lại. Người đàn ông cưỡi trên lưng ngựa cao, sừng sững giữa ánh mặt trời, mặc giáp màu đen, các mảnh giáp sáng bóng, phản chiếu ánh sáng lóa mắt khiến ta không thể nhìn rõ.
Khi đã có thể nhìn kỹ, ta thấy trước mắt mình là một người đàn ông có hàng lông mày kiếm sắc bén, ánh mắt sắc sảo dài mảnh, đôi môi mỏng khẽ mím lại, cằm vuông vức lạnh lùng. Đôi mắt sâu thẳm màu nâu sẫm đang im lặng nhìn ta.
Bốn mắt chạm nhau, ta đứng đờ người một lúc lâu mới hoàn hồn.