4
Thái độ của nàng quá bình tĩnh, còn ta thì quá kinh ngạc. Có ai làm chuyện mờ ám mà lại nói năng hùng hồn như vậy không?
Ta ngập ngừng mở cửa.
Nữ tử ngoài cửa lập tức lao lên nắm lấy cổ tay ta, kéo ta vào phòng rồi nhanh chóng đóng cửa lại.
Nàng dùng tay trái kéo tấm lụa che mặt xuống, tay phải đóng cửa gọn gàng.
“Là ta đây.”
Nàng cúi xuống, ghé sát vào mặt ta, hàng mi dài gần như chạm vào má ta.
“Ngươi làm gì mà ngẩn ra thế này, không nhận ra ta à?”
Dù nói ra thì hơi kỳ cục, nhưng lúc này ta có thể hiểu được lý do ba người đàn ông kia đều bị nàng quyến rũ.
Vẻ đẹp thế này, ai mà chịu nổi cơ chứ?
Thấy ta im lặng, sắc mặt nàng dần lạnh đi.
Nàng hừ lạnh một tiếng:
“Hôm qua còn là thanh mai trúc mã, hôm nay đã là hoa tàn liễu rụng rồi. Kim tiểu thư đúng là người hay quên.”
Tiếng hừ đầy kiêu ngạo này, sao lại quen tai đến thế nhỉ?
“Tống Hàn Doanh?”
“Ngày trước lúc rủ ta đi ngắm trăng còn gọi ta là Doanh Doanh, giờ có người mới tốt hơn người cũ, ngươi lại gọi ta là Tống Hàn Doanh?”
Nàng cười lạnh một tiếng:
“Đáng tiếc, cái người mới của ngươi lại chẳng phải thứ gì tốt đẹp.”
Nàng rút ra một miếng ngọc bội, hình dạng như đám mây xanh, dưới đó là chuỗi hạt màu lam nhạt:
“Này, đây là miếng ngọc bội Hàn Quan đưa cho ta. Vừa nhìn chất ngọc, ta biết ngay đây là thứ ngươi đã tặng cho hắn.”
Nàng giơ miếng ngọc bội lắc lư trước mặt ta:
“Ngươi mở to mắt mà nhìn cho rõ, hắn là hạng người gì.”
Với vẻ mặt mỉm cười, giọng điệu của nàng lại đầy sự đe dọa:
“Nếu ngươi còn không tỉnh ra, ta sẽ tát chết ngươi đấy.”
Trong giây lát, lòng ta tràn ngập nỗi buồn.
Tống Hàn Doanh nổi giận:
“Ngươi dám vì một gã nam nhân mà khóc lóc sao?”
Ta đáp lại rằng ta khóc vì người bạn thanh mai thuở nhỏ của ta, từng là người dịu dàng, thanh tú, nói chuyện nhẹ nhàng biết bao.
Còn người nữ nhân trước mặt này, mở miệng ra là đòi tát chết ta, làm sao có thể là nàng ấy được.
Sự sụp đổ của hình tượng nàng ấy còn khiến ta đau lòng hơn cả việc Hàn Quan thay lòng.
5
Ta và Tống Hàn Doanh là thế giao thân thiết từ nhiều đời.
Cha ta và cha nàng đều là người ở Đồng Thành, cùng học chung một thầy, lại cùng tham gia kỳ thi hương năm đó, tình cảm rất sâu đậm.
Nhưng kiến thức của hai người chênh lệch một trời một vực, năm ấy khi bảng vàng được công bố, cha ta rớt thảm không nỡ nhìn, còn cha nàng đỗ đầu bảng.
Nhiều năm sau, cha ta thành hôn với một nữ phú thương Giang Nam và ở rể. Còn cha nàng công danh sự nghiệp thăng tiến như diều gặp gió, hưởng lộc triều đình.
Cả hai người xem như đều có một tương lai sáng lạn.
Thế nhưng Tống đại nhân, lúc đó đã trở thành Tuần phủ Giang Nam không nghĩ như vậy.
Nhìn thấy người đồng môn năm xưa giờ đây phải dựa vào vợ và nhà vợ để sống, ông không khỏi thở dài. Nhiều lần mời cha ta đến phủ hàn huyên, khuyên cha ta nên đi thi thêm một lần nữa để tranh giành công danh.
Cha ta cũng đến vài lần, nhưng mỗi lần về đều bị mắng mỏ đến mặt mày tái nhợt.
Cuối cùng, ông không chịu nổi nữa, chân thành nói với người huynh đệ tốt bụng này:
“Tống huynh, đại phu nói rằng dạ dày của ta không tốt, chỉ có thể ăn cơm mềm.”
Tống đại nhân tức đến nỗi muốn ngã ngửa ra.
Ông đổi mục tiêu:
“Châu Nhi còn nhỏ, huynh nên đưa con bé đến phủ ta đọc sách. Nếu không, một tiểu thư nhà thương gia sau này làm sao tìm được mối hôn nhân tốt?”
Ông lườm cha ta một cái:
“Chẳng lẽ cũng lấy một kẻ dạ dày không tốt như huynh à?”
Lần này, cha ta không dám nói thêm gì nữa.
Được theo học cùng Tống đại nhân nổi danh khắp thiên hạ là một điều tốt nhiều người cầu còn không được. Thế là cha ta nhanh chóng đưa ta vào nhà họ Tống.
Khi đó, Tống Hàn Doanh mới bốn tuổi, lớn hơn ta vài tháng, nhưng đã toát lên phong thái của một tiểu thư khuê các, cử chỉ hành động vô cùng nề nếp.
Cha ta nói, khi nàng bắt đầu đọc thơ học chữ, ta vẫn còn mải chơi với bùn đất.
Tống đại nhân bận rộn, chính Tống Hàn Doanh là người nắm tay ta, dạy ta đọc sách và viết chữ.
Nàng học mọi thứ rất nhanh, rồi quay lại dạy ta. So với nàng, ta chẳng khác nào một kẻ đầu óc chưa được khai hóa.
Có một lần, Tống đại nhân kiểm tra bài học, rút thăm đến bài thơ của Đỗ Phủ.
Ta đọc đến câu “Khu nhi la tửu tương”, nhưng sau đó chẳng thể nhớ được gì nữa. Giữa lúc đầu óc đang rối loạn, ta liếc thấy Tống Hàn Doanh lén viết chữ “Cửu” lên mặt bàn.
Ta lập tức bật ra:
“Dạ vũ cửu thái nộn hựu trường, cát lai bạn phạn ca ca hương!”
Tống đại nhân ngây người. Tống Hàn Doanh cũng sững sờ.
Một lúc sau, Tống đại nhân thở dài:
“Châu Nhi, giơ tay ra đây.”
Mặt ta lập tức xụ xuống.
Huhu, ta tưởng mình đã lừa được rồi chứ.
Đúng lúc đó, Tống Hàn Doanh đứng chắn trước mặt ta:
“Cha, dù Châu Nhi không đọc đúng thơ, nhưng câu ấy cũng rất thú vị, hơn nữa ý thơ cũng gần giống với nguyên tác, có thể thấy nàng đã có tiến bộ.”
Tống Hàn Doanh từ trước đến nay luôn ngoan ngoãn, hiểu chuyện, chưa từng cãi lại người lớn. Đây là lần đầu tiên ta thấy nàng chống đối cha mình.
Khoảnh khắc đó, toàn thân nàng tỏa ra ánh sáng rực rỡ trong mắt ta.
Ngày hôm đó, ta không bị đánh. Ta vui mừng quá đỗi, liền nắm lấy tay Tống Hàn Doanh, gọi nàng là “Tỷ tỷ” hết lần này đến lần khác.
Tống Hàn Doanh đỏ mặt, không giữ nổi vẻ nghiêm nghị thường ngày của một đại tỷ nữa, dịu dàng nói với ta rằng câu thơ đó là “Dạ vũ tiễn xuân cửu, tân xuy gian hoàng lương.”
“Ngươi phải học hành chăm chỉ vào.”
Những lần tan học sau đó, ta và nàng đều cùng nhau đi dọc hành lang, và lần nào nàng cũng dùng câu nói đó làm lời tiễn biệt.
Cho đến lần cuối cùng, khi Tống đại nhân được thăng chức, phải chuyển cả nhà về kinh thành, nàng níu lấy tay ta không rời, nhất quyết đòi ta ở lại ngủ cùng nàng một đêm.
Đêm hôm đó, chúng ta nằm cạnh nhau, ríu rít trò chuyện rất nhiều điều. Tất nhiên, phần lớn thời gian là ta nói, còn nàng dịu dàng lắng nghe.
Cuối cùng, khi ta mơ màng buồn ngủ thì lại nghe nàng nói:
“Châu Châu là một đứa trẻ rất quý giá, vì vậy bá phụ và bá mẫu mới đặt cho ngươi cái tên này.”
Ta lẩm bẩm:
“Không phải đâu. Cha ta nói vì ta là một con heo ngốc nghếch chỉ biết cười, nên mới đặt tên ta như vậy.”
Tống Hàn Doanh cười, trong tiếng cười ẩn chứa chút ghen tị.
Lúc ấy ta không hiểu, tên của nàng được đặt từ câu “Trạm Nhược Hàn Băng Doanh”, vừa thanh nhã vừa hay, có gì mà phải ghen tị với ta.
Tống Hàn Doanh cũng không giải thích gì thêm.
Đêm ấy, nàng hát ru ta ngủ, hát một bài Khuê Oán không hề phù hợp với tuổi của chúng ta, câu “Hốt kiến mạc đầu dương liễu sắc, hối giao phu tế mịch phong hầu” nàng hát thật dịu dàng mà đầy bi ai.
Lúc bình minh sắp tới, Tống Hàn Doanh nói với ta:
“Châu Nhi phải luôn vui vẻ. Đừng quên ta nhé.”
Từ đó, nàng ở Lạc Kinh, ta ở Giang Nam.
Giang Nam nhiều mỹ nhân, nhưng ta chưa từng gặp ai có đôi mắt sâu thẳm như hồ nước của Tống Hàn Doanh.
Chúng ta từng ấy năm vẫn chưa gặp lại nhau, chỉ duy trì tình cảm thuở nhỏ qua những lá thư.
Nhưng tại sao một người luôn cẩn trọng như Tống Hàn Doanh bây giờ lại có thể tư tình với nam nhân, mà lại gặp gỡ đến ba người?
Ta thẳng thắn hỏi:
“Có phải ngươi gặp phải chuyện gì không?”
Tống Hàn Doanh trốn tránh trả lời, chỉ nói:
“Trong đám sĩ tử năm nay, chỉ có Ôn Kinh Triệt mới là người đáng làm phu quân. Chỉ là hắn hơi khó nắm bắt, Châu Nhi có thể thử trực tiếp bắt hắn về ngay sau khi bảng vàng được công bố.”
Nàng hạ mắt, vẻ mặt lạnh lùng:
“Nhưng nam nhân chẳng có gì đáng giá để giữ lại cả. Chờ khi ngươi có thai, giữ con bỏ cha là tốt nhất.”
Ta: …
Rốt cuộc nhưng năm qua Tống Hàn Doanh đã trải qua chuyện gì thế này?