Skip to main content
Generic selectors
Exact matches only
Search in title
Search in content
Post Type Selectors
Cổ Đại TA LÀ CON GÁI GIẢ CỦA HẦU PHỦ Chương 4 TA LÀ CON GÁI GIẢ CỦA HẦU PHỦ

Chương 4 TA LÀ CON GÁI GIẢ CỦA HẦU PHỦ

9:41 sáng – 25/09/2024

10

Hầu Phu nhân đánh giá Tề Kiến Chân một lúc, khi nhận ra thân phận của bà ấy, khí thế liền giảm đi ba phần.

“Hoa Lâm Quận chúa?”

Hoa Lâm Quận chúa là con gái của Anh vương, từ nhỏ được nuôi dưỡng bên cạnh Thái hậu.

Khi còn nhỏ, bà ấy đã nổi tiếng là thần đồng. Đến năm cập kê, Anh vương tặng lễ trưởng thành cho bà ấy một đề thi khoa cử.

Bà ấy bế quan ba ngày, viết nên tác phẩm nổi tiếng “Phụng Thiên”, được lưu truyền rộng rãi, trở thành hình mẫu cho các tiểu thư kinh thành.

Sau khi thành hôn, bà ấy quản lý gia đình xuất sắc, được khen ngợi từ trên xuống dưới; đến khi phu quân mất, bà ấy quyết chí giữ đạo tiết hạnh, ẩn cư tu hành, từ đó rời khỏi ánh mắt của thế gian.

Ta đã nghĩ rằng bà ấy có lai lịch lớn, nhưng không ngờ lại lớn đến vậy.

Anh vương và Hoàng đế là huynh đệ cùng mẫu hậu, Hoa Lâm Quận chúa không chỉ được Thái hậu yêu mến mà còn được Hoàng đế rất trọng vọng, cho phép bà đệ tấu chương bàn về triều chính.

Tề Kiến Chân mang họ Tề, nên ta không nghĩ đến bà là Hoa Lâm Quận chúa. Nghĩ lại, có lẽ cái tên “Tề Kiến Chân” cũng chưa chắc là thật.

Nhưng Hầu phu nhân cũng không phải người xuất thân thấp kém, bà ta là con út của một gia tộc quyền quý, tính cách kiêu ngạo, thường ngày hành sự rất ngạo mạn.

Huống chi, từ nhỏ bà ta đã được dạy rằng nhân tình mỏng như tờ giấy, việc quyền quý ra tay vì dân đen chỉ có trong sân khấu kịch, là trò khỉ để dỗ những kẻ ngốc.

Bà ta rất tin tưởng điều đó, và vẫn thường dạy Lạc Nhu như vậy.

Hầu Phu nhân tươi cười, không hành lễ, mà lại giống như người quen, lên tiếng: “Quận chúa đến nơi hẻo lánh này làm gì vậy?”

“Ta đến đây thì không lạ, Hầu nhưng phu nhân đến đây mới lạ đấy nhỉ?”

“Con gái ta hư hỏng, ta đến để dạy dỗ nó.”

“Ta lại không biết Hầu phu nhân khi nào đã mua đất lập nghiệp ở đây mà dưỡng con gái, sao vậy, Hầu phủ không đủ chỗ ở nữa à?”

Nghe đến đây, Hầu phu nhân Nghiê bắt đầu chột dạ.

“Quận chúa đùa rồi.”

“Đúng là đang đùa. Nếu là chuyện gia đình, phu nhân cứ tiếp tục xử lý đi.”

Giang Thụy không hiểu ra sao, vội nói: “Phu tử ơi!”

“À, đúng rồi.” Tề Kiến Chân làm ra vẻ bất chợt chỉ về phía Phùng Chiếu Thu, “Nhưng nếu cắt đứt tay bà ấy, thì e rằng cái đầu của phu nhân cũng không giữ được nữa đâu.”

Lời vừa dứt, không chỉ ta mà tất cả mọi người đều hoảng sợ.

Chẳng lẽ Phùng Chiếu Thu có thân phận không đơn giản?

Hầu Phu nhân trán lấm tấm mồ hôi: “Lời này có ý gì?”

Tề Kiến Chân mỉm cười: “Theo luật pháp triều đình, việc tự tiện lập công đường và dùng hình phạt riêng với dân thường có lương danh là trọng tội, sẽ bị chém đầu đấy! Sao, các người không biết à? Hầu Phu nhân, xem ra bà đọc ít sách quá rồi!”

Hầu Phu nhân nghe xong, bị Tề Kiến Chân chọc giận đến suýt nghẹn.

Người của Hầu phủ nhìn nhau đầy lo lắng, buông tay đang giữ chúng ta ra. Ta lao vào vòng tay của Phùng Chiếu Thu, khóc nức nở.

Hầu phủ không thể đè nổi phủ Anh vương, đối mặt với Tề Kiến Chân, Hầu phu nhân chỉ có thể thua cuộc. Bà ta không còn tự chuốc lấy xấu hổ, phẩy tay bỏ đi.

Tề Kiến Chân nhìn theo bóng lưng bà ta, nhàn nhã nói: “Làng Bảo Hoa cách kinh thành chưa tới ba mươi dặm, nha môn Yến Kinh cũng chỉ cách cổng thành mười dặm, chưa đến bốn mươi dặm đường, đi kiện chẳng cần phải lăn qua ván đinh đâu.”

Nghe xong, Hầu phu nhân khựng lại, nhưng không quay đầu.

Giang Thụy đỡ chúng ta dậy, mắng: “Hầu Phu nhân thật đúng là hồ đồ, con gái bà ta bệnh thì phải đi tìm thái y, tìm Niệm Chi tỷ tỷ làm gì? Chị đâu phải đại phu.”

Tề Kiến Chân nói: “Thái y có thể chữa bệnh, nhưng không chữa được cái phần thiếu trong đầu bà ta đâu.”

11

Đêm khuya, ta ngồi trong sân mãi không thể tĩnh tâm được.

Gió lạnh bỗng thổi tới, Phùng Chiếu Thu mang áo khoác ra và khoác lên người ta.

Bà ấy nhẹ nhàng hỏi: “Con không ngủ được à?”

Ta nhìn về phía cổng sân, tuy Hầu phu nhân đã rời đi, nhưng những nơi có bóng tối vẫn khiến người ta sợ hãi.

“A nương, người không sợ sao?”

“Khi còn trẻ a nương cũng sợ. Nhưng sợ thì có ích gì, sợ hay không cũng phải chịu khổ. Vậy nên sau này a nương chẳng còn sợ nữa.”

Ta ôm lấy eo bà ấy.

Eo bà ấy không mềm mại, cũng không thon thả, nhưng lại khiến ta cảm thấy an tâm.

“A nương à, ôm nương con không còn sợ nữa.”

“Có a nương đây, đương nhiên con không cần sợ gì cả.”

Ta đã chờ câu này suốt mười sáu năm.

Còn quá khứ ư… cứ để nó trôi đi, ta không còn là con bé tội nghiệp ngóng trông Hầu phu nhân ban cho một cái nhìn nữa, sao phải bới móc quá khứ ra mà khóc than?

Phùng Chiếu Thu chưa bao giờ khóc.

Bà ấy vuốt tóc ta, nói: “Niệm Chi, chúng ta quay về kinh thành thôi.”

Ta hơi ngạc nhiên: “Sao lại phải về?”

” Tề phu tử nói đúng, quốc có quốc pháp, gia có gia quy, ngay cả quyền quý cũng phải tuân theo luật pháp. Chỉ là làng Bảo Hoa hẻo lánh, dễ bị giở trò. Ở dưới chân thiên tử, Hầu phu nhân không dám hô hào đao kiếm như vậy đâu.”

“Nhưng kinh thành chi phí đắt đỏ, chúng ta có tiền sao?”

“Nương đã để dành một ít, nếu không đủ thì bán nhà và đất đi.”

“Bán thì được bao nhiêu?”

Nhà cửa ở làng Bảo Hoa không đáng giá, còn hai mẫu đất mà a nương cày cấy cũng chẳng bán được bao nhiêu tiền.

Nhưng Phùng Chiếu Thu lại nói: “A nương chưa tính kỹ, nhưng bán xong chắc cũng đủ mua nhà ở kinh thành, còn dư chút vốn để làm ăn.”

Ta đưa tay sờ trán a nương: “A nương phát sốt rồi phải không? Sao lại nói mấy lời như vậy?”

Phùng Chiếu Thu ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi: “A nương đưa khế đất, khế nhà cho con, con đã xem chưa?”

Ta lập tức chạy vào phòng, lấy cái hộp gỗ ra, khế nhà thì chẳng có gì đặc biệt, chỉ là căn nhà nhỏ này.

Nhưng khế đất mới là chuyện lớn, là đất tốt ở ngoại ô kinh thành, tận năm mươi mẫu!

Tính ít nhất mỗi năm cũng thu được khoảng một trăm lượng tiền thuê đất.

“Khi a nương đưa khế đất cho con, là muốn cho con biết gia sản, không ngờ con chưa từng xem qua. A nương nói Hầu phu nhân có chặt tay a nương, a nương vẫn nuôi nổi con, con tưởng a nương nói khoác sao?”

Ai mà ngờ được chứ? Phùng Chiếu Thu đến đón ta còn tiếc không thuê xe ngựa, để con bò già rống lên khiến người ta phiền lòng.

Hơn nữa, ngày thường bà ấy rất tiết kiệm, cái gì tự trồng được thì không mua, thỉnh thoảng có mua gì cũng phải trả giá đến mức thấp nhất.

Nhưng ta vẫn còn thắc mắc.

“Trồng trọt kiếm được nhiều tiền như vậy sao?”

“Đâu có!” Phùng Chiếu Thu cười nói, “Con gái ngốc, trồng trọt mà giàu thì đến lượt chúng ta sao?”

“Đây là a nương cùng phu thê nhà họ Giang khi còn trẻ chạy buôn mà kiếm được. Chỉ là a nương không tham lam như họ, đủ ăn đủ tiêu là được rồi.

“Con đừng nhìn làng Bảo Hoa nhỏ bé mà lầm, ai có quan hệ làm ăn ở đây cũng chẳng nghèo đâu. Cứ nói Giang Thụy đấy, làm việc sôi nổi, nói năng thoải mái, con tưởng là vì tính tình con bé tốt sao? Đó là vì cha nương con bé chuẩn bị cho nó một khoản hồi môn lớn, có tiền thì mới có tự tin.”

Ta nhìn vào những tờ khế trong hộp, không nhận ra mình đã cười đến tận mang tai.

Tiền quả thật có thể giúp người ta vững lòng hơn.

12

Những năm qua, Phùng Chiếu Thu đã tích lũy được không ít bạc, nên tạm thời không cần bán đất.

Ngày rời Bảo Hoa thôn, Giang Thuỵ tiễn ta.

Nàng ấy khóc nức nở, mặt mũi nhăn nhó, trông không thể nào tệ hơn được nữa.

“Tỷ tỷ thật đáng ghét! Tỷ tỷ giống y như cha nương muội, vừa đến đã đi… chẳng ai chịu ở lại lâu cả…”

Nàng ấy đang trách móc thì thổi ra một cái bong bóng từ nước mũi.

Ta khẽ ho để che giấu nụ cười, rồi đưa chiếc ngọc bội mình luôn đeo cho nàng ấy: “Miếng ngọc này tuy không đáng giá, nhưng là món đồ mà tỷ đã đeo từ nhỏ. Đừng khóc nữa, Bảo Hoa thôn gần kinh thành thế này, muội cứ đến tìm tỷ bất cứ lúc nào.”

Bà Giang cũng tháo chiếc vòng bình an đeo trên cổ, đặt vào tay ta: ” Niệm Chi, bảo trọng.”

Lần này, Phùng Chiếu Thu thuê xe ngựa, bà ấy nói: “Niệm Chi, chúng ta trở về thật oai phong!”

Trước khi bước lên xe ngựa, ta quay lại nhìn căn nhà nhỏ mà Phùng Chiếu Thu đã sống hơn mười năm qua, hai cây đào đứng cạnh nhau, tựa như chẳng bao giờ cô đơn.

Còn Phùng Chiếu Thu thì không ngoái đầu, thẳng bước lên xe ngựa. Bà ấy lúc nào cũng như thế, chỉ biết nhìn về phía trước.

“Niệm Chi, đi thôi!”

Những vó ngựa khuấy tung cát bụi trên đường đất của Bảo Hoa thôn, dọc đường từ vùng hoang vu đến nơi phồn hoa. Khi nhìn thấy hai chữ “Yến Kinh,” ta hiểu rằng, mình cũng không cần phải quay đầu lại nữa.

Chúng ta mua một ngôi nhà ở phía nam thành, tuy nhỏ nhưng đầy đủ mọi thứ cần thiết.

Phùng Chiếu Thu thích nhất là cây hồng trong sân. Bà ấy nói khi cây ra quả, đỏ rực cả khu vườn, nhìn thôi cũng thấy vui vẻ.

Còn khoảng sân trống, bà ấy định trồng rau, dọc tường thì gieo hạt tường vi.

“Tường vi tốt lắm, hoa đẹp, lại có gai. Đẹp đẽ canh giữ bờ tường, ai dám trèo vào thì chỉ có bị đâm trầy da!”

Nhìn bóng dáng bận rộn của bà ấy, ta không hiểu sao lại thấy mũi cay cay, dường như cuộc sống vốn dĩ nên thế này.

Sau khi sắp xếp ổn thỏa nơi ở, chúng ta đi tới phố Tây xem cửa hàng.

Ta không có kinh nghiệm trong việc kinh doanh, nhưng Phùng Chiếu Thu thì rất thạo.

Bà ấy định mở một cửa hàng bán lụa, chuyên bán vải từ Giang Nam.

“Thứ nhất, vải từ Giang Nam nổi tiếng thanh nhã và quý phái. Ở kinh thành này, giàu có thì không thiếu, nên không lo chuyện bán ra.

“Thứ hai, phu thê nhà Giang chạy tuyến Kinh – Hàng đã lâu, chuyện mua hàng và vận chuyển cứ giao cho họ, không cần lo về nguồn cung.

“Thứ ba, cũng là điều quan trọng nhất, đồ tốt thế này phải để con gái ta mặc chứ!”

Ta mắt đỏ hoe, cười nói: “Con gái nhà ai mà may mắn thế?”

Bà ấy nắm chặt tay ta: “Còn nhà ai nữa? Chính là con gái của Phùng Chiếu Thu chứ ai!”

13

Ngày khai trương tiệm vải, tiếng pháo nổ không ngừng, ta bịt tai lại, háo hức mong đợi những vị khách đầu tiên.

Thế nhưng, đợi mãi chỉ thấy một cơn mưa nhỏ lất phất, pháo hoa bị mưa rửa trôi sạch sẽ, mà chẳng có lấy một người bước vào tiệm.

Thấy ta cứ dán mắt ra cửa, Phùng Chiếu Thu từ tầng hai bày cho ta một chiếc bàn trà: “Không có việc gì thì ngồi đọc sách đi.”

Ta ngồi xuống bàn, cầm cuốn sách, nhưng mắt lại cứ hướng ra đường.

Rõ ràng người qua lại rất nhiều, sao không ai vào mua vải nhỉ?

Phùng Chiếu Thu bưng trà bánh tới, cười nói: “Con cầm sách ngược rồi kìa.”

Ta ngượng ngùng đặt cuốn sách xuống: “A nương, làm ăn còn khó hơn đọc sách nhiều. Sách thì chữ đã in sẵn, lý lẽ cũng viết rõ ràng, dù không giỏi như Tề phu tử, nhưng ai đọc cũng có thể hiểu ra một điều gì đó. Còn làm ăn, có thành hay không là phụ thuộc vào người ta.”

“Muốn lấy tiền từ túi người khác, sao mà dễ được?”

Nói xong, một tiếng sấm vang rền từ phía chân trời, gió lại nổi lên, lá cây xoáy theo cơn gió rơi lả tả ngoài cửa sổ. Bà ấy thở dài: “Mỗi cơn mưa thu đều thêm chút lạnh, đông sắp đến rồi.”

Người nghèo thường không thích mùa đông.

Tuyết trong thơ của thi nhân thì lãng mạn như tiên cảnh, nhưng đối với những người đói rét, tuyết chẳng khác gì một lưỡi dao đòi mạng.

Lưu Nhụy Nhi xuất hiện giữa một cơn lạnh buốt như thế.

Áo cô bé đầy miếng vá, đôi dép rơm ướt sũng trong nước bùn, phần trên của dép đã rách lỗ chỗ, ngón chân tím tái cố co lại để không làm rách to thêm.

Cô bé ôm chặt muội muội, vị muội muội ấy không đến nỗi tệ lắm, trên tay áo chỉ có vài miếng vá nhỏ hình bông hoa, không có nhiều vết vá chằng chịt.

Phùng Chiếu Thu vừa thấy họ, lập tức cầm ô ra đưa hai tỷ muội vào nhà.

Ta mang nước ấm đến, Lưu Nhụy Nhi vội vàng đón lấy, rối rít cảm ơn không ngớt.

Cô bé nhỏ hơn ta hai tuổi, người ở Đạm Châu, gia đình bị chia cắt do lũ lụt, muội ấy và muội muội đi xin ăn dọc đường đến Yên Kinh để tìm họ hàng.

“Nhưng họ hàng ấy cũng nghèo khổ, chẳng thể nhận nuôi chúng ta. Dì Phùng ơi, con may vá giỏi lắm, cũng biết làm quần áo, dì có thể cho con làm việc trong tiệm được không? Con không cần lương đâu, chỉ cần cho con ăn ở là được!”

Ta tưởng a nương sẽ từ chối, không ngờ bà ấy lại đồng ý ngay.

“Ta cũng không giấu gì con, tiệm này buôn bán ế ẩm, đang lỗ vốn, nên ta cũng không định thuê thêm người. Hôm nay gặp con là cái duyên, con cứ ăn ở trong tiệm, còn tiền lương thì ta không trả riêng, thay vào đó sẽ chia phần trăm từ vải bán được, con thấy sao?”

Tất nhiên là quá tốt rồi.

Khi về nhà, ta không nhịn được mà hỏi: “A nương nhận họ vì thấy họ đáng thương à?”

“Bảo đúng một nửa thôi.

Giả như Nhụy Nhi may vá không tốt, dù a nương có thương hai tỷ muội ấy thế nào đi nữa, cùng lắm chỉ cho ít tiền giúp qua cơn khó, chứ không thể giữ họ lại làm việc.”

“Con biết không, người ta không thể chỉ biết thương hại, ngay bên cạnh ‘đáng thương’ là ‘dễ bị lợi dụng’. Con người đáng quý ở chỗ tự lập, phải có tay nghề hay chí hướng vươn lên thì mới có thể giúp ích cho người khác, khi đó người ta mới muốn ra tay giúp đỡ.”

Ta chợt nhận ra, Phùng Chiếu Thu và Tề Kiến Chân có nhiều điểm giống nhau. Tề Kiến Chân là “kẻ vô lại” trong sách Thánh hiền, còn Phùng Chiếu Thu là “trí giả” trong khói bụi cuộc đời.

Cả hai đều dạy ta cách sống tốt hơn.

Phùng Chiếu Thu để Nhụy Nhi may vài bộ đồ đông cho hai tỷ muội họ trước, vì mùa đông ở Yên Kinh rất dài, không thể qua loa được.

Ban đầu chỉ định cho cô bé tập may, không ngờ muội ấy lại có thiên phú, không chỉ kiểu dáng đẹp mà màu sắc cũng phối hợp rất nhã nhặn.

Nhụy Nhi mặc bộ quần áo tự may, đứng ở quầy như một tấm biển sống, và rồi khách hàng dần dần ghé tiệm nhiều hơn.

Nhụy Nhi nói đang may cho ta một chiếc áo khoác đỏ, chắc đến Tết là mặc được.

Giang Thụy nhờ người mang lạp xưởng đến, bảo là do bà Giang tự tay làm. Ta cắn một miếng, quả nhiên bà ấy không phân biệt nổi đường với muối.

Ta lật lại những dòng ghi chép gần đây, ngày càng toàn là chuyện nhỏ nhặt, nào là ăn gì, mặc gì.

Đúng là thật nhục với cầm bút!

Thế nhưng Phùng Chiếu Thu lại rất hài lòng khi nhìn những dòng đó.