7
Khi chúng ta còn chưa ăn xong bữa sáng, tổ phụ đã đến.
Bên ngoài thành vang lên tiếng hô hào giết chóc, nhưng không kéo dài bao lâu rồi tắt lặng.
Đại thúc phụ nói rằng Thành chủ Hàn Xuyên quá tự phụ, tổ phụ đã đến mà không lập tức mở cổng đón tiếp, tự chuốc lấy khổ.
Sau đó là tiếng khóc la khắp thành.
Tổ phụ đã đồ sát cả thành.
Không khí tràn ngập mùi máu tanh.
Tứ thẩm nhát gan nhất, bám lấy cột mà nôn mửa.
Tứ thúc cười nhạo bà vô dụng.
Tứ thúc còn nói rằng trong thành Hàn Xuyên này toàn là kẻ có tội, chết rồi thì cũng chẳng có gì đáng tiếc.
Tứ thẩm lau khóe miệng: “Đúng vậy, ở đây toàn là kẻ có tội, chết rồi cũng chẳng có gì đáng tiếc.”
Bà đứng dậy, đi vào phòng bên, thắp một nén nhang cho đứa con gái yểu mệnh của mình.
Gió cuốn qua sân, tuyết rơi lả tả.
Tổ mẫu bảo chúng ta vào bếp phụ giúp.
Ta còn nhỏ, không giúp được gì trong bếp, nên ở sảnh lau bàn.
Nghe thấy tứ thúc hỏi phụ thân ta: “Tiểu Ngũ, nhìn mắt đệ thâm quầng thế kia, tối qua chắc không yên tĩnh nhỉ?”
Ta nhìn về phía phụ thân, quả nhiên thấy quầng mắt ông có màu xanh thẫm.
Đêm qua khi ta nhìn ông từ mật thất, ông không hề có.
Phụ thân đang lau kiếm, không trả lời.
Tứ thúc tiếp tục hỏi: “So với lúc nàng ta làm người thê tử hiền lương, bây giờ cảm giác thế nào, có phải càng đắm say hơn không?”
Phụ thân lạnh lùng liếc nhìn ông ta.
Tứ thúc bĩu môi: “Đệ không phải là đã động lòng với nàng ta chứ? Đừng trách tứ ca không nhắc nhở, nếu công chúa Bắc Địa biết đệ còn dây dưa với Giang Ngọc Nương, thì phiền to rồi.”
“Nếu không có gì bất ngờ, công chúa chắc giờ này cũng đã vào thành.”
“Giang Ngọc Nương, thê thảm rồi!”
Giang Ngọc Nương chính là mẫu thân ta.
Ta lập tức bỏ khăn lau xuống, chạy vào bếp.
Mẫu thân đang cùng tổ mẫu nhào bột, ta liền kể lại những gì mình nghe được.
Tổ mẫu khen ngợi ta, rồi bảo mẫu thân rằng những tin tức bà nhận được trước đó là đúng.
Bà ấy dặn mẫu thân nếu thật sự gặp công chúa Bắc Địa, hãy kéo thấp cổ áo xuống: “Con phải để công chúa biết rằng con và Thiếu Mẫn đã có chuyện gì, khiến họ càng loạn càng tốt.”
Mẫu thân gật đầu.
Ta lo lắng nói: “Không được, không được! Mẫu thân không thể gặp công chúa gì đó! Tứ thúc nói nếu gặp, mẫu thân sẽ rất thê thảm.”
Mẫu thân bảo ta đừng lo lắng, nói rằng những ngày tháng thê thảm nhất bà đã trải qua rồi.
Đến bữa trưa, trên bàn đầy những món ăn ngon, còn phong phú hơn cả dịp Tết.
Tổ mẫu dẫn chúng ta đứng trước cổng sân để đón tổ phụ.
Nhưng tổ phụ không đến, người đến là một sứ giả, thông báo rằng tất cả chúng ta phải đến phủ Thành chủ.
Tổ mẫu không tỏ ra ngạc nhiên, dường như mọi chuyện bà đều đã biết trước.
Bà ấy bảo đường tỷ ở lại dâng rượu và dập đầu trước đại thúc phụ, rồi cũng bảo ta dâng rượu và dập đầu trước phụ thân.
Ta ngạc nhiên: “Nhưng hôm nay không phải sinh thần của con mà, tổ mẫu?”
Tổ mẫu đáp: “Không phải là vì sinh thần, mà là để tạ ơn mối duyên phụ tử giữa con và cha con trong kiếp này.”
Ta nghe lời, bước đến dâng rượu cho phụ thân.
Tổ mẫu nhìn họ nói: “Uống xong chén rượu này, duyên phận cha con giữa hai người cũng chấm dứt, các con hãy suy nghĩ kỹ.”
Đại thúc phụ không chút do dự, uống cạn chén rượu.
Phụ thân suy nghĩ một lúc, nhìn ta, rồi cũng uống cạn.
Tổ mẫu thoáng lộ vẻ buồn bã, nhưng chỉ trong khoảnh khắc rồi lại che giấu cảm xúc.
Chúng ta quay về phòng, thay y phục sạch sẽ, rồi theo gió tuyết bước ra khỏi cổng.
Tổ mẫu tự tay gỡ chiếc đèn lồng đỏ trên cửa xuống, bà ấy chậm rãi vuốt ve lớp lụa của chiếc đèn, đó là tấm vải làm từ áo cưới của bà, rồi đốt nó.
Chiếc đèn lồng đã bạc màu, dần cháy thành tro trong gió tuyết.
Đi được một quãng xa, ta quay đầu nhìn lại.
Thấy sân nhà bốc cháy ngùn ngụt, ngay cả cây hợp hoan to lớn cũng bị ngọn lửa nuốt chửng.
“Mẫu thân ơi, nhà mình cháy rồi.” Ta vội nói với bà.
Nhưng mẫu thân không quay đầu lại.
Bà quay mặt ta về phía trước, từng lời từng chữ: “A Đề, con phải nhớ, mãi mãi không được quay đầu lại.”
8
Trên đường đi, xác chết nằm la liệt khắp nơi, tứ chi rải rác đầy đất.
Hàn Xuyên Thành có chừng một hai vạn dân, chỉ trong nửa ngày, con phố nhộn nhịp đã trở nên chết chóc tĩnh lặng.
Kẻ chết thì chết, kẻ trốn thì đã trốn.
Lời đồn không sai, tổ phụ quả thật là người vô cùng đáng sợ.
Khi vừa đến phủ Thành chủ, một nữ tử trẻ đẹp lao ra, theo sau là một con chó lớn như con bò con.
Bà ta lao vào lòng phụ thân: “A Mẫn, cuối cùng chàng đã đến.”
Phụ thân khách sáo gọi bà ta là công chúa, các thúc phụ cũng rất cung kính với bà ta.
Sau khi nói chuyện với phụ thân xong, bà ta nhìn về phía chúng ta, ánh mắt cuối cùng dừng lại trên mẫu thân và ta.
Bà ta hỏi phụ thân: “Đây là thê tử trước và con gái của chàng sao?”
Phụ thân gật đầu.
Công chúa đánh giá mẫu thân từ đầu đến chân: “Nàng thật đẹp, ta có thể lấy da nàng làm đèn lồng, chắc chắn sẽ rất đẹp.”
Phụ thân đáp: “Nàng ấy không phải là phụ nữ đoan chính, để hôm khác ta tặng công chúa người đẹp hơn, sạch sẽ hơn.”
Công chúa giận dỗi: “Bắc Địa chúng ta không quan tâm đến trinh tiết của nữ tử, ta chỉ muốn nàng ấy. Sao? Chàng không nỡ ư?”
Phụ thân nói không phải.
Tổ mẫu bước lên giải vây, công chúa lại liếc mắt nhìn tổ mẫu: “Bà nên lo cho bản thân trước đi, liệu bà có thể sống sót rời khỏi phủ Thành chủ này không.”
Tổ mẫu chỉ cười nhẹ, rồi dẫn chúng ta tiếp tục tiến vào trong phủ.
Phủ Thành chủ được xây trên vùng đất cao, rất rộng lớn và uy nghi, có thể nhìn toàn cảnh Hàn Xuyên Thành.
Tổ phụ đứng trước bậc thềm cao, bên cạnh là một nữ nhân trẻ hơn mẫu thân ta, mặc áo lông chồn trắng, trong lòng ôm một bé gái khoảng ba tuổi.
Bé gái cũng mặc áo lông chồn, mập mạp tròn trĩnh, trông rất phúc hậu.
Ta biết đó là ái thiếp của tổ phụ, còn đứa bé trong tay nàng ta là con của tổ phụ.
Mặc dù chúng ta đều sinh ra trong phủ Tấn Vương, nhưng số phận lại khác biệt hoàn toàn.
Phía sau tổ phụ còn có vài thiếu niên, là những đường huynh mà ba năm trước tổ phụ đã mang đi.
Họ nhìn các thẩm với ánh mắt đầy căm hận.
Trước đây, họ cũng từng vui đùa trong vòng tay của các thẩm.
Nhưng bây giờ, họ coi mẫu thân mình là nỗi nhục nhã, hận đến mức không muốn gặp lại.
Tổ mẫu dẫn chúng ta đến hành lễ với tổ phụ.
Tổ phụ nhìn tổ mẫu từ trên cao: “Bà đến rồi.”
Tổ mẫu ngẩng đầu lên, thần sắc trang nghiêm: “Thiếp đã đến.”
Tổ phụ nói: “Các con trai bà vẫn đứng về phía bà, nên bà mới sống đến hôm nay.”
Tổ mẫu cười nhẹ: “Đúng vậy, đều là những đứa con tốt của thiếp.”
Tổ phụ thở dài: “Minh Nguyệt, bà còn tâm nguyện gì chưa trọn, hôm nay ta có thể giúp bà hoàn thành.”
Tổ mẫu không cầu xin để chúng ta được sống.
Bà ấy đưa ra ba yêu cầu:
Thứ nhất là cho bà tự tay giết Thành chủ và trưởng tử của hắn.
Thứ hai, bà muốn ăn một bữa cơm cuối cùng với tổ phụ.
Thứ ba, bà muốn tất cả chúng ta – những nữ quyến – được chết cùng một lúc, để có bạn đồng hành trên đường xuống Hoàng Tuyền.
Tổ phụ không đồng ý yêu cầu đầu tiên.
Ông ta nói Thành chủ đã đầu hàng, còn bằng lòng dâng hết vàng bạc lương thảo, mọi chuyện trước kia coi như xóa sạch.
Hơn nữa, ông ta đã đồ sát cả thành, những kẻ từng bước vào sân nhà chúng ta cũng đều đã chết, coi như đã cho tổ mẫu và các nữ quyến một lời giải thích.
Thiếp thất của tổ phụ cũng xen vào khuyên nhủ:
“Tỷ tỷ à, chuyện cũ đã qua rồi, cứ mãi níu giữ chỉ khiến bản thân thêm đau khổ.”
Tổ mẫu không tranh cãi nữa: “Cũng đúng, giữ mãi chẳng được gì, vậy thì đổi lại thành được xem pháo hoa lần nữa đi.”
“Thiếp nhớ lần đầu gặp chàng, chính là dưới ánh pháo hoa ở thành Thiên Đô.”
“Đèn hoa ngàn tia sáng, khói lửa nở bảy cánh hoa.”
“Nếu có thể thấy lại khung cảnh tráng lệ đó, thiếp chết cũng không hối tiếc.”
Tổ phụ nghe tổ mẫu nói, vẻ mặt có chút ngẩn ngơ.
Có lẽ ta ông ta cũng nhớ lại những ngày trẻ tuổi, khi không được phụ hoàng sủng ái, cũng chẳng có tình huynh đệ.
Ông ta lớn lên trong cô độc, nghĩ rằng cả đời mình sẽ cứ thế mà trôi qua.
Không ngờ lại có một thiếu nữ thanh khiết như vầng trăng sáng xuất hiện trong cuộc đời ông ta, nắm tay ông ta bước vào dòng người cuồn cuộn.
Tổ phụ đồng ý: “Được, ta đồng ý với nàng.”
Thiếp thất lo lắng: “Không thể! Nàng ta nhất định đang câu giờ, chàng còn phải xuống phía Nam gặp cha và huynh trưởng của thần thiếp, không thể chậm trễ.”
Tổ phụ nói chỉ mất một ngày, không sao cả.