Ngày cuối cùng của ta với tư cách người cầm bút vẽ, trong đại điện thoang thoảng hương thơm nhè nhẹ, dù hương ấy dễ dàng bị lấn át bởi mùi phấn son và rượu nồng nặc trong điện.
Bức họa được vài thái giám trải ra, hướng lên cao. Tất cả mọi người đều hít một hơi kinh ngạc, ánh mắt lộ rõ vẻ mê đắm.
Hoàng thượng toát lên sự uy nghiêm sâu sắc, trong khi các mỹ nhân, người đẫy đà, người mảnh mai, mỗi người một vẻ khác nhau, nhưng đều được khắc họa ở khoảnh khắc đẹp nhất của mình.
Trên vạt váy giản dị của một mỹ nhân, còn có cả một mảng lớn hoa mẫu đơn nở rộ.
Bức họa càng thêm phần yêu kiều, quyến rũ.
Còn với Tần Quý phi, nốt ruồi giữa trán nàng ta đã được ta khéo léo biến thành một bông đào rực rỡ, xinh đẹp không gì sánh bằng.
Bị cuốn hút, Tần Quý phi bất giác bước xuống, tiến lại gần bức họa.
Ta nắm chặt cây bút trong tay, móng tay đâm vào lòng bàn tay mà không hề hay biết.
Một mỹ nhân đề xuất treo bức tranh này trong đại điện để có thể ngắm nhìn mỗi ngày, và Hoàng thượng vui vẻ đồng ý.
May mắn thay, ta được toàn vẹn rời khỏi cung.
Việc đầu tiên khi rời khỏi cung, ta đã ném cây bút vẽ của mình xuống vực sâu vạn trượng. Như thế, bí mật về lưỡi dao sắc nhọn giấu ở đầu kia của bút vẽ cũng không ai hay biết nữa.
“Chém! Chém!”
Hai từ ấy trở thành cơn ác mộng ám ảnh trong giấc ngủ của ta.
Nghĩ đến cảnh dịch bệnh hoành hành nơi biên cương, lòng ta không yên, cuối cùng quyết định đến biên cương. Tự nhủ rằng có thể cứu được một người thì cứu một người.
Vẫn giả trang thành nam nhi, ta đeo bên mình các loại thảo dược đã nghiền sẵn rồi lên đường.
Dọc đường đi, dân chúng khổ sở đến không còn sức sống. Thậm chí, cả vỏ cây cũng đã bị lột sạch, có người phải dùng thi thể của người đã khuất để vượt qua cơn đói.
Cuối cùng, ta cũng đặt chân đến biên cương.
Nơi đây không ai biết ta từng là một họa sư, càng không ai hay ta là đệ tử duy nhất của thần y Lộ Hoài.
Biết biên cương khổ, nhưng ta không ngờ tình cảnh đã thê thảm đến mức này. Không phải là thiếu thốn dược liệu, mà là hoàn toàn không còn nữa.
Ngày ta tới, đúng lúc các binh sĩ vừa trở về từ trận chiến, tiếng rên rỉ và than khóc khắp nơi. Ta băng bó và cứu chữa từng người một.
Trong hàng ngũ thương binh, có một đứa trẻ chừng mười hai, mười ba tuổi, đã mất một cánh tay. Lòng ta quặn đau, nhẹ nhàng băng bó vết thương cho nó thật cẩn thận.
Cậu bé cố nhịn đau, đôi mắt to tròn nhưng ngập đầy nước mắt.
Cậu ấy khẽ hỏi ta:
“Ca ca, bao giờ thì đánh xong trận này? Đến khi đánh xong mà về nhà, tổ mẫu và tỷ tỷ thấy ta thế này, liệu có bỏ rơi ta không?”
Ta cố nén nỗi buồn, mỉm cười an ủi cậu:
“Sẽ không đâu. Đệ là một anh hùng dũng cảm, họ sẽ tự hào về đệ.”
Ánh mắt cậu ấy bừng lên niềm hy vọng, nhưng rồi lại lụi tắt:
“Nhưng… nếu chẳng may trận này thua, ta còn mặt mũi nào để gặp họ?”
“Hoặc nếu ta chết, họ sẽ ra sao?”
Lời này khiến ta không thể nghĩ ra bất cứ câu nào để giúp cậu bé khơi dậy ý chí chiến đấu. Với một vị quân vương như thế, làm sao ta có thể khuyến khích cậu ấy liều mình chiến đấu được?
Cậu bé dùng cánh tay còn lại nắm chặt tay áo ta:
“Ca ca, ta là người trấn Hứa Vân. Nếu chẳng may ta chết, ca ca sau này có đi ngang qua đó, xin hãy ghé thăm tổ mẫu và tỷ tỷ, nói với họ rằng ta không làm họ mất mặt.”
Ta cẩn thận nắm lấy cánh tay đã được băng bó của cậu, lòng trĩu nặng đau thương.
Ta kéo tay áo che lấy cánh tay đã mất của cậu ấy, dũng cảm gật đầu, nhưng nước mắt vẫn không kìm được mà tuôn rơi.
Ta thực sự không nỡ nói với cậu ấy rằng trấn Hứa Vân ta đã đi qua, nơi ấy chỉ còn lại xác chết ngổn ngang, dịch bệnh hoành hành, cả thị trấn đã hoàn toàn trống vắng.
Ngay lúc đó, một binh sĩ hốt hoảng chạy tới, lớn tiếng gọi:
“Có vị đại phu nào giỏi y thuật không? Ở đây có người bị thương nặng, cần chữa trị gấp!”
Ta được đưa đến một doanh trướng riêng biệt, mới biết người bị thương nặng ấy là Tô thiếu tướng.
Lúc này, thiếu tướng đã hôn mê bất tỉnh. Tô Tướng quân ngồi bên cạnh giường, lo lắng gọi:
“Lục Lang, con phải gắng gượng! Con là hy vọng cuối cùng của phụ thân, nhất định phải vượt qua!”
“Thưa Tướng quân, đại phu đến rồi.”
Tô Tướng quân vội đứng dậy, nhưng vừa bước một bước thì chao đảo, gần như ngã xuống. Một binh sĩ bên cạnh nhanh chóng đỡ lấy ông, khuyên ông nên nghỉ ngơi trước, nhưng Tô Tướng quân lắc đầu, ánh mắt lo âu dồn về phía ta.
Ta bắt mạch cho thiếu tướng, rồi xem xét vết thương, nơi đó vẫn còn cắm một mũi tên có lông vũ.
Ta quay sang Tô Tướng quân, nói:
“Tướng quân ở đây, thảo dân không khỏi e ngại. Tướng quân hãy mau đi nghỉ ngơi, thảo dân nguyện lập quân lệnh trạng, cam đoan rằng thiếu tướng sẽ bình an vô sự.”
Nghe ta nói vậy, Tô Tướng quân nhìn ta đầy ý nghĩa, rồi cúi đầu:
“Vậy tất cả nhờ vào tiên sinh.”
Sau đó, ông cùng những người khác rời khỏi doanh trướng, để ta lại một mình với thiếu tướng.
Trước tiên, ta lấy ngân châm, phong bế các huyệt đạo quanh vết thương, rồi đặt vào miệng cậu viên thuốc bổ tâm dưỡng huyết, sau đó nhanh chóng rút mũi tên ra khỏi vết thương.
Khi mũi tên được rút ra, máu lập tức trào ra dữ dội.
Ta vội vàng dùng một tay lấy túi thuốc đã chuẩn bị sẵn áp lên vết thương, tay kia nhanh chóng phong bế thêm mấy huyệt đạo nữa bằng ngân châm, ngăn không cho máu tiếp tục chảy.
Chỉ đến khi dòng máu dừng lại, ta mới thở phào nhẹ nhõm.
Cuối cùng, khi ta đã băng bó xong vết thương, trời cũng đã tối dần. Ta cố gắng đỡ thân mình mệt mỏi bước ra khỏi doanh trướng thì nghe thấy tiếng thở dài của các binh sĩ bên ngoài.
“Mong thiếu tướng sẽ bình an vô sự.”
Một người thở dài nói.
“Tướng quân có bảy người con trai, mà đã có năm người hy sinh nơi chiến trường rồi, ông ấy không chịu nổi thêm mất mát nào nữa.”
“Cầu trời phù hộ cho thiếu tướng!”
Một giọng nói già nua vang lên. Lại có một người cảm thán:
“Tướng quân và thiếu tướng đều là những người tốt.”
Ta biết, vì ta đã tận mắt chứng kiến, Tô thiếu tướng vì cứu một binh sĩ nhỏ tuổi mà tự mình chịu trọng thương.
Hít sâu một hơi, ta kéo tấm rèm dày nặng, bước ra khỏi doanh trướng. Mấy binh sĩ bên ngoài vội vã xúm lại hỏi:
“Đại phu, thiếu tướng sao rồi?”
Ta gật đầu, trấn an họ:
“Không sao nữa rồi. Chỉ cần ta sắc thêm mấy thang thuốc bổ là sẽ khỏe thôi.”
Mọi người mừng rỡ ra mặt, một người vội chạy về báo tin cho Tướng quân.
Ta chăm sóc thiếu tướng một ngày một đêm, cuối cùng hắn cũng tỉnh lại.
Nhờ đã cứu thiếu tướng, các binh sĩ đối xử với ta rất kính trọng. Thỉnh thoảng, khi có được chút thức ăn ngon hơn, họ đều chia sẻ với ta.
Họ luôn nghĩ đến việc mang thức ăn đến cho ta, những khuôn mặt chất phác ấy khiến lòng ta vừa cảm động vừa đau xót.
Ta xót xa cho những người binh sĩ tốt như vậy, nhưng vì sao họ lại phải phục vụ dưới trướng của một vị quân vương như thế kia?
Vài ngày sau, lại diễn ra một trận chiến ác liệt, thêm nhiều binh sĩ ngã xuống từng người một. Thảo dược ta mang theo đã cạn kiệt, buộc ta phải đi khắp nơi tìm kiếm thuốc.
Ta phát hiện một chỗ trũng nơi hai nước đang giao chiến lại có loài thảo dược mà ta cần.
Nhân lúc hai bên tạm ngừng để nghỉ ngơi, ta lén lút tiến vào khu trũng để hái thuốc. Không ngờ lại bị binh sĩ Phong Quốc bắt được.
Ta bị đưa về doanh trại của họ. Nghe báo cáo từ binh sĩ, ta khó lòng tin nổi—Hoàng đế của Phong Quốc lại tự mình ra trận.
Điều khiến ta kinh ngạc hơn là vị Hoàng đế trẻ ấy đang ngồi ăn cùng các binh sĩ, và bữa ăn của họ cũng chẳng khác gì nhau.
Vị quân vương trẻ đặt miếng lương khô xuống, nhìn ta một cách bất đắc dĩ, rồi ra lệnh:
“Chiến tranh đã đủ khổ rồi. Bách tính vô tội, cho hắn chút lương khô và thả đi.”
Dây trói trên người ta nhanh chóng được cởi ra, một binh sĩ trao cho ta miếng lương khô trong tay.
Miếng lương khô đặt vào tay khiến lòng ta ngổn ngang.
Ta xoay người định quay về, nhưng chẳng hiểu sao chân đột nhiên không thể bước nổi. Trong ánh nhìn cảnh giác và phong trần của những binh sĩ xung quanh, ta bất giác quỳ xuống.
“Hoàng thượng, thảo dân biết bản đồ phòng thủ biên giới của Ngự Quốc.”
Hoàng đế Phong Quốc kinh ngạc đứng bật dậy, nhìn chằm chằm vào ta, không thể tin hỏi:
“Ngươi nói gì?”
Ta nhắm mắt lại, đau đớn, những hình ảnh về bách tính chết chóc đầy đường lại hiện lên trong đầu. Khi mở mắt, ánh mắt ta đã trở nên kiên định:
“Thảo dân là một họa sư. Khi vào cung để vẽ tranh, vô tình nhìn thấy bản đồ biên giới của Ngự Quốc. Thảo dân có thể vẽ lại bản đồ ấy mà không sai một ly.”
“Hoàng thượng, không thể tin hắn! Nhỡ đâu hắn là gián điệp do Ngự Quốc phái sang thì sao?”
Một giọng nữ tướng vang lên.
“Hoàng thượng không thể để hắn đi nữa, biết đâu hắn cố ý đến để dò xét tình hình quân sự của ta.”
“Giết hắn đi!”
Những tiếng nói đồng ý vang lên xung quanh, ánh mắt của các binh sĩ nhìn ta không còn chút cảm thông, chỉ đầy vẻ cảnh giác.
Ta bị đưa vào doanh trướng của Hoàng đế Phong Quốc, nơi đã chuẩn bị sẵn giấy bút.
Không chút do dự, ta vẽ ra bản đồ phòng thủ biên giới của Ngự Quốc.
Hoàng đế Phong Quốc nhìn tấm bản đồ, nhưng không vội vàng sai người đưa ta đi.
Hoàng đế Phong quốc lại hỏi ta:
Tại sao?”
Trước ánh mắt của ta, hắn lặp lại một lần nữa:
“Tại sao ngươi lại làm như vậy?”
Xung quanh còn có vài vị tướng quân đang nhìn ta chằm chằm đầy đe dọa, rõ ràng họ vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào bản đồ mà ta vừa vẽ.
Trong đầu ta suy nghĩ trăm mối, nhưng những gì ta thốt ra lại là:
“Ta muốn báo thù. Ta muốn Hoàng đế Ngự Quốc và đám phi tần của hắn phải chết.”
Trước ánh mắt kinh ngạc của họ, ta kể lại câu chuyện về cái chết thảm khốc của huynh trưởng mình. Tất cả đều im lặng, chỉ có nữ tướng quân đưa mũi kiếm về phía ta, nói:
“Ai biết được ngươi nói thật hay giả? Có khi ngươi bịa ra câu chuyện này để lừa chúng ta cũng nên.”
“Lừa chúng ta? Hôm nay ngươi đừng mong sống mà ra khỏi đây!”
Nữ tướng quân quát lớn.
Hoàng đế Phong quốc nhìn ta chằm chằm bằng ánh mắt sắc lạnh, không nói gì trong một lúc lâu. Chỉ đến khi mũi kiếm của nữ tướng quân gần kề ta, hắn mới hô ngừng lại rồi ra lệnh cho thuộc hạ đưa ta đi giam giữ.
Ta nghe thấy tiếng nữ tướng quân rút kiếm, gấp gáp nói:
“Hoàng thượng, ngài không thể bị những lời dối trá của hắn làm cho mờ mắt! Hắn nhìn qua đã thấy là kẻ lừa gạt.”
Ta bị đưa đến một gian phòng hẻo lánh, với vài binh sĩ canh gác chặt chẽ.
Ta biết rằng Phong quốc đã lại xuất binh, nhưng không rõ liệu Hoàng đế Phong quốc có tin vào bản đồ mà ta đã vẽ hay không.
Ta vừa hy vọng Hoàng đế Phong quốc tin vào bản đồ, để có thể công phá thành trì, tiến thẳng vào hoàng cung Ngự Quốc, kết thúc chiến tranh càng sớm càng tốt.
Nhưng đồng thời, ta lại lo lắng rằng nếu hắn ta thực sự chiếm được thành, vô số binh sĩ phòng thủ sẽ phải chịu tổn thất.
Trong sự giằng xé ấy, ta chịu đựng suốt một ngày dài.
Cuối cùng, quân đội Phong quốc cũng trở về. Một canh giờ sau, ta lại được đưa vào trong doanh trại chính.
Vừa bước vào, ta đã bị nữ tướng quân dí kiếm vào cổ, lạnh lùng nói:
“Giải dược đâu?”
Ta bối rối: “Giải dược gì cơ?”
“Ngươi còn giả vờ sao? Nếu không phải vì bản đồ phòng thủ của ngươi, chúng ta làm sao có thể mắc bẫy cơ quan, và Hoàng thượng làm sao có thể trúng độc?”
Ngạc nhiên, ta khẽ quay đầu nhìn về phía giường, mới thấy Hoàng đế Phong quốc đang nằm trên đó, xung quanh là mấy ngự y đang nhíu mày lo lắng.