Cha ta nổi giận đùng đùng, còn ta chỉ cười lạnh:
“Không đánh nữa? Mấy lời hứa của một kẻ cờ bạc như cha thì ai tin? Cha nói gì mà hôn sự tốt, chắc cha muốn đưa con về rồi lại bán đi thôi. Ngày xưa con còn nhỏ, không có đường nào khác, nhưng giờ cha nghĩ còn lừa được con sao, đi lừa ai khác đi.”
Nói xong, xe lừa chao nhẹ một cái, ta nhảy xuống, cầm theo gói đồ không thèm quay đầu lại mà đi thẳng, để lại sau lưng tiếng chửi rủa của cha ta.
Suy đi tính lại, ta đi thêm mười dặm đường rồi quay lại làng Đại Miếu.
Làng Đại Miếu nằm dưới chân núi Cửu Bình, có khoảng trăm hộ dân sinh sống. Nhà họ Bùi ở phía tây làng, bên hàng rào cạnh cổng sân, ta đã trồng một vườn rau nhỏ và vài cây mộc lan.
Chiều tà, ánh mặt trời đỏ rực nhuốm lên khung cảnh yên bình của sân nhỏ.
Tiểu Đào, cô bé với hai búi tóc nhỏ rối tung, đang ngồi ở cửa khóc lớn.
Cùng với Tiểu Đào còn có lão thái thái đã già yếu, một già một trẻ ngồi bên nhau, lão thái thái run rẩy chống gậy, dè dặt nhìn cô bé:
“Nhị nha, đừng khóc nữa, con há miệng to thế ta sợ lắm.”
“Nhị nha, quần ta ướt rồi, con giúp ta thay được không?”
“Hu hu hu, lão thái thái, sao người lại tè ra quần nữa rồi?”
“Giờ không phải lúc nói chuyện đó, con giúp ta thay quần được không?”
“Hu hu hu, con không biết làm.”
“Vậy con có thể ra bếp nấu bát mì thập cẩm không?”
“Hu hu hu, ca ca chẳng phải đã đi nấu rồi sao?”
“Ôi dào, nó có cái bản lĩnh gì đâu, ngay cả thê tử cũng giữ không nổi. Nếu không phải tại nó, chúng ta đâu có rơi vào cảnh này?”
“Hu hu hu, lão thái thái, con muốn tẩu tẩu, con nhớ tẩu tẩu.”
“Đừng khóc, lão thái thái đã có chủ ý rồi, chờ tối xuống, chúng ta sẽ bỏ trốn, không ở lại căn nhà này nữa, tên nghiệt tử kia không phải người tốt.”
…
Khi ta quay lại, Tiểu Đào khóc òa lên lao đến ôm chặt lấy ta không chịu buông, còn lão thái thái thì đáng thương nhìn ta:
“Ta vẫn chưa thay quần đâu.”
Dỗ Tiểu Đào một lúc lâu rồi giúp lão thái thái thay quần, ta mới đứng dậy đi vào bếp tìm Bùi Nhị Lang.
Lúc đó, hắn đang nấu ăn, lửa trong bếp cháy rực, nước trong nồi đã sôi, còn người đứng bên bàn vẫn đang loay hoay với bát mì.
Nhị Lang đứng thẳng, dáng người cao ráo, lưng thẳng tắp, trên má vương vãi chút bột, tay thì dính đầy bột mì, trông điềm tĩnh nhưng lại có chút lúng túng.
Căn bếp vốn dĩ đã gọn gàng nay lại trở nên lộn xộn với nồi niêu bát đĩa chất đầy. Ta khẽ thở dài:
“Nhị thúc, để ta làm cho.”
Nhị Lang quay đầu lại, trong ánh sáng lờ mờ của căn bếp, gương mặt hắn thoáng hiện sự ngạc nhiên, đôi lông mày rậm khẽ nhướng lên, đôi mắt đen nhánh nhanh chóng lấy lại vẻ điềm tĩnh, hắn mím môi rồi bước ra ngoài.
Nấu xong bát mì rau xanh, ta bưng tô ra đặt lên bàn trong sân, rưới thêm chút dầu vừng vào bát của Tiểu Đào và lão thái thái.
Khi thấy họ vui vẻ ăn uống, ta quay vào gian nhà chính, đến căn phòng phía tây ngăn cách với gian nhà chính. Thấy cửa chưa đóng, ta khẽ gọi qua tấm rèm trong:
“Nhị thúc, ăn cơm thôi.”
Tấm rèm cửa đã bạc màu qua năm tháng, gạch nền được quét sạch sẽ nhưng vẫn thô ráp và cũ kỹ.
Trong phòng ánh sáng lờ mờ, ta vén rèm lên, tiếng bước chân của Bùi Nhị Lang vang lên trầm thấp, giữa khoảng không yên tĩnh, vai hắn nổi bật trong chiếc áo xanh, thân hình cao lớn như tùng bách giữa rừng.
Gương mặt hắn sắc nét, đôi mắt như băng giá lạnh lẽo, cũng giống như ánh trăng lạnh lẽo, khiến ta cảm thấy xung quanh bỗng như tối lại, chỉ còn thứ ánh sáng lạnh toát tỏa ra.
Bùi Nhị Lang có dung mạo đẹp đẽ, nhưng lại mang trong người sự xa cách tự nhiên khiến người khác khó gần gũi. Khi vô tình đối diện với đôi mắt sâu thẳm và sắc bén của hắn, lòng ta bất giác chùng xuống, đôi tay đan chặt vào nhau dưới ống tay áo.
“Tiểu cô còn nhỏ, lão thái thái cũng cần người chăm sóc. Nhị thúc, nếu người quay lại quân doanh, đã nghĩ kỹ sẽ sắp xếp họ ra sao chưa?”
Giọng ta nhẹ nhàng, nhưng giọng hắn lại trầm thấp, nặng nề:
“Ta định gửi họ đến nhà họ Chu ở thôn Tây Pha.”
Tim ta lại thắt lại.
Nhà họ Bùi có một người tỷ tỷ đã gả đến thôn Tây Pha. Tỷ ấy tên Bùi Mai, là trưởng nữ nhà họ Bùi, lớn hơn Đại Lang ba tuổi.
Từ khi Bùi lão gia còn sống, Bùi Mai đã gả cho con trai cả của trưởng thôn họ Chu ở Tây Pha.
Trưởng thôn họ Chu là một thân sĩ có tiếng, gia đình họ Chu là gia đình giàu có nhất trong mười dặm quanh đó.
Làm dâu trưởng thôn, việc chăm lo cho muội muội và tổ mẫu ở nhà mẹ đẻ chắc chắn không phải vấn đề.
Trùng hợp thay, ta cũng lớn lên ở thôn Tây Pha từ nhỏ.
Biết rằng nhà họ Chu tuy giàu có, trong nhà kẻ hầu người hạ đầy đủ, nhưng Chu lý trưởng lại là kẻ xem tiền như mạng, còn thê tử của ông ta thì luôn tỏ ra hách dịch, thường đối xử thô bạo và nhục mạ những tá điền thuê đất.
Khi Bùi lão gia còn sống, Bùi Mai thường về thăm nhà mẹ đẻ, vì gia đình nhà chồng quản chặt tiền bạc, chồng thì không có tài kiếm tiền, thi nhiều lần vẫn chẳng đỗ nổi tú tài, suốt ngày chỉ biết ăn chơi sa đọa, mang tiếng làm dâu nhà giàu nhưng Bùi Mai muốn có chút tiền dư dả mua quần áo, phấn son đều phải nhờ nhà mẹ đẻ chu cấp.
Từ khi Bùi lão gia qua đời, cửa hàng ở trấn cũng đã bán đi, Đại Lang lại ốm yếu, gia đình dựa vào chút của cải còn lại mà gắng gượng. Khi Bùi Mai về nhà xin tiền, Bùi mẫu không còn dễ dàng như trước mà cho nữa.
Không lấy được tiền, lại còn phải nghe Bùi mẫu cằn nhằn, Bùi Mai dần dần không còn lui tới.
Trong ba năm ta ở nhà họ Bùi, tính ra thì chỉ gặp Bùi Mai vào hai lần, khi Đại Lang và Bùi mẫu qua đời.
Lần cuối cùng gặp, nàng mặc một chiếc áo khoác trắng ngà thêu viền hoa lan tinh xảo, vô cùng thanh nhã. Khi bước vào nhà để chịu tang, nàng nhẹ vuốt mái tóc, hai tay cầm khăn tay nhỏ nhắn giơ lên ngang eo, khẽ khóc nấc một tiếng:
“Mẫu thân, con gái đến trễ rồi.”
Giọng nàng thê lương dịu dàng, nhưng động tác thì không chút sơ suất, khi dùng khăn tay lau nước mắt, nàng còn khẽ ấn vào cánh mũi để tránh làm nhòe phấn son.
Da nàng trắng ngần, mặt được trang điểm kỹ càng với lớp phấn hồng, dù đang khóc đi chăng nữa thì nước mắt cũng chẳng thể làm hỏng lớp trang điểm của nàng.
Khó có thể tưởng tượng rằng, một thiếu phu nhân sang trọng như vậy, thời thiếu nữ từng giúp gia đình bán tào phớ ở trấn.
Ta không rõ Nhị Lang nghĩ gì, chỉ biết rằng ta không yên tâm khi giao Tiểu Đào, người đã được ta chăm sóc ba năm, và lão thái thái già yếu, lú lẫn, cho nhà họ Chu.
Vì vậy ta nói với Bùi Nhị Lang:
“Nhị thúc muốn giao họ cho nhà họ Chu, có lẽ lý trưởng sẽ vì thể diện mà không từ chối, nhưng chẳng hay người có biết, dù đại cô là đại tẩu nhà họ Chu, đã gả sang đó nhiều năm mà chỉ sinh được một cô con gái. Mẹ chồng nàng luôn bất mãn, và phu quân nàng cũng đã nạp thiếp từ lâu, cuộc sống của nàng thực sự không dễ dàng.”
Nhị Lang im lặng một lúc, chưa kịp để chàng lên tiếng, ta lại nói tiếp:
“Đã như vậy, chúng ta không cần làm phiền đến đại cô nữa. Giấy phóng thê ta tạm thời giữ lại, nhị thúc cứ yên tâm quay lại quân doanh. Ta sẽ ở lại chăm sóc gia đình, đợi đến khi Tiểu Đào và lão thái thái đều ổn định, khi đó ta sẽ rời đi cũng chưa muộn.”
Lời ta nói đầy chân thành, ánh mắt của Nhị Lang chìm trong bóng tối, đôi mắt sâu thẳm như ẩn chứa một tầng sương mù, nặng nề và tĩnh lặng.
Hắn không nói gì, ta lại hỏi:
“Nhị thúc nghĩ thế nào?”
Thêm một lúc nữa, hắn khẽ gật đầu, giọng nói có chút khàn khàn:
“Được.”
Một chữ “Được” vang lên, ta thở phào nhẹ nhõm, lòng cũng nhẹ nhàng hơn hẳn.
“Cơm đã nấu xong rồi, nhị thúc mau ăn đi, kẻo nguội.”
2
Vài ngày sau, Nhị Lang trở lại quân doanh.
Không lâu sau khi hắn đi, ta đã đưa cha mình, Tạ Thủ Nhân, lên quan phủ kiện.
Nguyên do là khi ta cùng Tiểu Đào giặt đồ ở đầu làng, ông ta mang theo một gói bánh ngọt, giả bộ đến thăm nhà họ Bùi, lừa lão thái thái rằng sẽ đưa bà đi thăm con gái, sau đó lục tung nhà cửa lên lấy đi toàn bộ của cải trong nhà.
Hộp tiền giấu trong tủ, mười ba lượng sáu tiền, cùng chiếc vòng ngọc mà Bùi mẫu để lại, toàn bộ tài sản đều bị ông ta trộm sạch.
Sau đó ta phát hiện ra, đúng như ta dự đoán, ông ta nói không đánh bạc nữa chỉ là dối trá, chiếc xe lừa cũng là thuê. Ông ta định lừa ta về nhà để gả cho một lão già mở tiệm da trong huyện, thậm chí đã nhận trước năm lượng bạc của lão ta.
Hôm đó, ta tức giận đến mức cầm dao bếp, đi suốt hai mươi dặm đường đến huyện thành.
Ở sòng bạc, ta lôi kẻ gầy đét như một bộ xương sống này đến quan phủ.
Theo luật Đại Sở, bất hiếu và chống đối cha mẹ là tội “nghịch”, tội nhân sẽ bị xử tử hình bằng hình thức thắt cổ.
Tạ Thủ Nhân từ lúc vào quan phủ đã run rẩy không ngừng.